Chương 2: Thái Độ Ra Đi
Chương 2: Thái Độ Ra Đi
Ma 5:7-12
![]() |
| Chương 2: Thái Độ Ra Đi |
“Phước cho những kẻ hay thương xót, vì sẽ được thương xót! Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ thấy Đức Chúa Trời! Phước cho những kẻ làm cho người hoà thuận, vì sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời! Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!
Khi nào vì cớ ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các đấng tiên tri trước các ngươi như vậy.” (Mat 5:7-12)
Leo lên đỉnh núi
Một trong những học giả mà tôi yêu thích viết rằng các phước lành cũng giống như việc leo lên một ngọn núi vậy: Hai phước lành đầu tiên, nghèo nàn về mặt tâm linh và than khóc, đưa chúng ta đi được nửa đoạn đường. Sự nhu mì đưa chúng ta ba phần tư đoạn đường, trong khi sự đói khát và đầy dẫy sự công bình đem chúng ta lên tới đỉnh của ngọn núi. Nói cách khác, chúng ta đang leo núi khi chúng ta học về các thái độ chuẩn bị.
Khi một môn đồ học về các thái độ dẫn lên đỉnh núi, họ sẽ như thế nào trước khi bắt đầu đi xuống phía bên kia của ngọn núi và học thái độ bước đi mà Đấng Christ muốn dạy họ? Bởi vì đã được đầy dẫy sự công bình, họ có trở nên giống như người Pha-ri-si không? Họ có nhìn xuống mọi người và trích dẫn ra các câu Kinh Thánh để phê phán những người họ biết không? Thái độ bước đi sẽ trả lời cho những câu hỏi này.
Kẻ hay thương xót
Thái độ thứ năm được chúc phước là “Phước cho những kẻ hay thương xót, vì sẽ được thương xót” (Mat 5:7). Chữ “thương xót” có nghĩa là “tình thương vô điều kiện”. Khi vua Đa-vít viết rằng sự thương xót của Đức Chúa Trời sẽ theo ông trong suốt những ngày của đời mình, chữ “theo” thật sự có nghĩa là “theo đuổi.” Đa-vít tin rằng tình yêu vô điều kiện của Chúa sẽ theo đuổi ông trọn đời (Thi 23:6).
Khi tất cả những điều khủng khiếp mà người Ba-ly-lôn thực hiện khi đánh chiếm dân Do Thái diễn ra, Giê-rê-mi đã viết sách Ca thương.Khi đang viết thì ông có một khải tượng. Đức Chúa Trời đã cho ông biết một cách chắn chắn rằng: “Giê-rê-mi, ta chẳng bao giờ ngừng yêu dân sự của ta!” Và rồi ông viết đã rằng lòng nhân từ và thương xót của Đức Chúa Trời thì mới luôn mỗi ngày (Ca 3:22-23).
Câu đầu tiên của sách Ma-la-chi chép rằng: “Gánh nặng lời Đức Giê-hô-va cho Y-sơ-ra-ên bởi Ma-la-chi. Đức Giê-hô-va có phán: Ta yêu các ngươi.” Toàn bộ sứ điệp của tiên tri Ô-sê nói về tình yêu vô điều kiện của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời luôn luôn yêu và tình yêu của Ngài là tình yêu vô điều kiện (IGi 4:16). Sự nhân từ của Đức Chúa Trời đã rút lại những hình phạt mà chúng ta đáng phải gánh chịu bởi vì tội lỗi của mình, và ân điển của Ngài ban cho chúng ta dư dật những ơn phước mà chúng ta không đáng được nhận. Một lời diễn giải rất hay cho phước lành này đó là: “Phước cho người nào được đầy dẫy tình yêu vô điều kiện của Đức Chúa Trời.”
Thật tuyệt vời khi khám phá ra rằng chữ “nhân từ” được tìm thấy 366 lần trong Kinh Thánh bởi vì Đức Chúa Trời biết chúng ta cần điều đó mỗi ngày trong năm, đủ cho cả năm nhuận nữa. Sự nhân từ được nhắc đến 280 lần trong Cựu Ước. Đức Chúa Trời luôn là một Đức Chúa Trời của tình yêu vô điều kiện.
Lời hứa của Chúa Giê-xu cho người hay thương xót là “sẽ được thương xót”, không chỉ có nghĩa là họ sẽ nhận được sự thương xót của Đức Chúa Trời và những người mà họ bày tỏ lòng thương xót, nó có nghĩa là họ sẽ trở nên những kênh dẫn tình yêu vô điều kiện của Đức Chúa Trời cho những người cần được yêu vô điều kiện.
Nếu chúng ta đang đi xuống núi và dự phần vào giải pháp của Đấng Christ cho những người bị tổn thương, chúng ta phải được đầy dẫy tình yêu vô điều kiện của Đức Chúa Trời. Những môn đồ dự phần trong giải pháp hay lời giải đáp của Chúa Giê-xu không phải là những người Pha-ri-si tự cho mình là công bình, nhưng là ống dẫn của tình yêu vô điều kiện của Đức Chúa Trời và Đấng Christ. Đầy dẫy sự công bình là đầy dẫy tình yêu của Đức Chúa Trời, trong Đức Chúa Giê-xu Christ.
Kẻ có lòng trong sạch
Khi chúng ta yêu, chúng ta thường yêu với một động cơ ích kỷ. Đó là lý do tại sao phước lành kế tiếp là “Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ thấy Đức Chúa Trời” (Mat 5:8). Khi người theo Đấng Christ yêu, đó không phải bởi vì họ có một nhu cầu cá nhân ích kỷ cần được đáp ứng. Họ yêu bởi vì tình yêu của Đấng Christ hằng sống đầy dẫy trong họ, và động cơ của họ là trong sạch.
Chữ “trong sạch” trong phước lành này thật ra là một từ Hy Lạp có nghĩa là “được làm cho thông”. Chữ này được dịch ra là “làm sạch” khi Gia-cơ sử dụng cùng một từ như vậy (Gia 4:8). Điều cốt yếu của phước lành này đó là khi môn đồ yêu với tình yêu vô điều kiện của Đức Chúa Trời thì mọi động cơ ích kỷ đều sẽ được tẩy sạch ra khỏi người đó. Ứng dụng trong đời sống cá nhân, chúng ta nên cầu nguyện mỗi ngày rằng nếu như có điều gì ngoài tình yêu của Đấng
Christ ở trong lòng chúng ta thì Đức Thánh Linh sẽ tẩy sạch điều đó.
Khi chúng ta làm điều tốt cho người khác, họ sẽ lập tức thắc mắc về động cơ của chúng ta. Nhưng người môn đồ có lòng thương xót của Chúa Giê-xu có thể nói với những người họ yêu thương rằng: “Tôi chẳng muốn điều gì nơi anh cả ngoại trừ đặc quyền được yêu anh bằng tình yêu của Đấng Christ.”
Lời hứa của Chúa Giê-xu dành cho người có lòng trong sạch đó là họ sẽ thấy Đức Chúa Trời. Những ống dẫn tình yêu của Đấng Christ với động cơ trong sạch sẽ được nhìn thấy Đức Chúa Trời khi khi chuyên chở tất cả tình yêu của Đấng Christ để xoa dịu nỗi đau của những con người đang bị tổn thương trong thế gian này. Khi tình yêu của Đức Chúa Trời tuôn chảy trong con cái Ngài, họ sẽ sống trong Đức Chúa Trời và Ngài sống trong họ như lời của sứ đồ Giăng, vị sứ đồ của tình yêu thương, đã nói (IGi 4:16).
Kẻ làm cho người hoà thuận
Phước lành thứ bảy là: “Phước cho những kẻ làm cho người hoà thuận, vì sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời.”Điểm cốt lõi của thái độ này đó là các môn đồ, người mang đến giải pháp và câu trả lời của Chúa Giê-xu, sẽ là một người hoà giải. Một trong những căn nguyên của những vấn đề kinh khủng ở dưới chân núi chính là sự xa lánh ghét bỏ. Con người xa lánh Đức Chúa Trời, ghét bỏ người khác và thậm chí ghét bỏ chính họ.Chúa Giê-xu đang thách thức các môn đồ của Ngài học tập và gặt hái được những thái độ tích cực nầy để có thể kinh nghiệm sự hoà giải trong 3 trường hợp trên và rồi trở nên những người hoà giải khi họ quay trở lại với đám đông bên dưới.
Phao-lô viết rằng bất cứ ai kinh nghiệm được phép lạ của sự hoà thuận với Đức Chúa Trời trong Đấng Christ cũng được uỷ thác cho sứ điệp và chức vụ giảng hoà (IICo 5:14 6:2). Dựa trên đoạn Kinh Thánh đó, một nhà thần học đã viết: “Ý muốn của Đấng Giảng Hoà đó là người giảng hoà trở nên tác nhân hoà giải trong đời sống của những người chưa được giảng hoà.” Đó là điều cốt yếu trong kế hoạch của Chúa Giê-xu khi Ngài dạy về phước lành thứ bảy.
Trong suốt cuộc chiến tranh lạnh, một vị bác sĩ giải phẫu trong một trong những trại tập trung nô lệ kinh khủng tại Si-bê-ri đã trở thành một Cơ đốc nhân. Tin cậy Chúa Giê-xu là Chúa và Đấng Cứu Rỗi, vị bác sĩ người Do Thái tên Boris Kornfeld này đã quyết định trở thành một người mang chức vụ giảng hoà tại nơi khủng khiếp nầy. Ông giải phẫu cho một bệnh nhân, rồi sau đó chia sẻ về Đấng Christ cho người đó sau cuộc phẫu thuật. Chính vì hành động can đảm của mình, ông đã bị giết ngay trên giường ngủ trong đêm hôm đó. Người bệnh nhân của ông đã bình phục và cuối cùng đã nói cho cả thế giới biết về những điều kinh khủng xảy ra trong trại nô lệ đó. Tên ông là Alexander Solzhenitsyn.
Vị bác sĩ Cơ đốc tận hiến đó đã không hề biết rằng bệnh nhân của ông sẽ trở nên nổi tiếng và viết nhiều cuốn sách tuyệt với. Ông đơn giản chỉ làm theo điều Chúa Giê-xu đã dạy trong phước lành thứ bảy. Lời hứa của Chúa Giê-xu dành cho những người mang chức vụ giảng hoà là họ sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời chỉ có một Con Trai và Con Độc sanh của Ngài là một giáo sĩ truyền giáo. Và điều tuyệt vời đó là Đức Chúa Trời cũng sẽ xem những người Ngài sai đi như con của Ngài, họ được gọi là con trai hay con gái của Đức Chúa Trời.
Kẻ chịu bắt bớ
“Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy.”Tôi đã nói rằng các phước lành này đi thành từng đôi với nhau, và đúng như vậy.Phước lành thứ bảy đi cặp với phước lành thứ tám.
Boris Kornfeld đã dâng cuộc đời mình để trở nên một tác nhân hoà giải cho Alexander Solzhenitsyn. Đó là kinh nghiệm của những người mang chức vụ giảng hoà trong suốt lịch sử của hội thánh. Đó là lý do tại sao phước lành thứ bảy cơ bản là “Phước cho những người là tác nhân hoà giải” và phước lành thứ tám là “Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình,vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy.” Những người chịu bắt bớ bởi vì chức vị giảng hoà thật sự xem trọng mạng lệnh của vị Vua trong tấm lòng mình cho dù họ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.
Một vấn đề cần được làm rõ ở đây đó là không phải “chịu bắt bớ” vì bất kỳ lý do gì, ví dụ như bị cướp giật những thứ mang theo bên mình, thì đều được phước. Ở đây nói rằng “Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình.” Bởi vì họ chia sẻ về Tin Lành, bởi vì họ tự xem mình là đồng hành với Đức Chúa Giê-xu Christ nên họ sẽ bị bắt bớ. Bạn có thể thấy được lý do vì sao hai phước lành cuối này lại đi chung với nhau.
Những người mang chức vụ giảng hoà bị bắt bớ vì họ được đặt để theo chương trình của Chúa, tại nơi trung tâm của xung đột và của sự xa lánh, ghét bỏ. Họ đi đến nơi nào có những con người ghét bỏ nhau đang chiến đấu với nhau. Hãy nghĩ đến các điểm nóng trên thế giới này, như khu vực Trung Đông chẳng hạn, hay bất cứ nơi nào đang có xung đột gay gắt. Những người hoà giải đã đi tới đó và nơi đó cực kỳ nguy hiểm.
Chúa Giê-xu dạy về tám thái độ tốt đẹp này và rồi, ở đầu câu Mat 5:11, Ngài bắt đầu ứng dụng chúng. Giải thích rõ hơn về các cụm từ trong tám phước lành, đó là “phước cho kẻ”, phước cho người nào. Nghe có vẻ chung chung và không cụ thể cho cho ai cả. Nhưng ở đầu câu 11, Ngài nói rằng:“Khi nào vì cớ ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước.”
Ngài đang quay lại với những người ngồi xung quanh Ngài và giờ đây Ngài đang làm cho sứ điệp của mình cụ thể với từng cá nhân. Ngài đang đưa ra lời tiên báo về sự bắt bớ này. Phần ứng dụng của tám phước lành bắt đầu từ đây và lời dạy về chúng giờ đây được áp dụng trong suốt phần còn lại của bài giảng.
Chúng ta có thể nghĩ rằng nếu như có những người có tám thái độ được chúc phước này trên thế giới chúng ta ngày nay thì họ sẽ được cả thế giới hoan nghênh. Tuy nhiên, các phước lành cuối cùng cho chúng ta biết rằng vì cớ tất cả những thái độ được chúc phước này mà môn đồ của Đức Chúa Giê-xu Christ sẽ bị bắt bớ. Tại sao lại như vậy?
Câu trả lời đó là người môn đồ có các thái độ này sẽ đứng trước mọi người như là một kiểu mẫu mà mọi người cần noi theo.Khi những người ở thế gian đối diện với đời sống của một môn đồ có các thái độ này, họ sẽ có hai chọn lựa: họ có thể công nhận đó là kiểu mẫu mà họ nên sống,và họ có thể khao khát có được những thái độ được chúc phước này để giúp họ sống đúng như thế. Hoặc họ có thể tấn công những môn đồ là kiểu mẫu cho cách nhìn và các giá trị của Đức Chúa Giê-xu Christ. Trong suốt hơn 2000 năm qua,cái thế giới không nhìn biết Đức Chúa Trời này đã và đang làm theo cách thứ hai.
Tóm tắt về tám phước lành
Tám thái độ được chúc phước này là một bài giảng, và tất cả lời dạy phía sau của Chúa Giê-xu đều là phần ứng dụng của bài giảng này. Bối cảnh của bài giảng cho thấy cách nhìn của Ma-thi-ơ về sự khủng hoảng liên quan đến việc trở thành một Cơ Đốc Nhân. Theo Ma-thi-ơ, vấn đề của việc trở thành một Cơ Đốc Nhân không phải là Chúa Giê-xu đang làm gì cho bạn.Sự nhấn mạnh ở đây là “Bạn đang làm gì cho Chúa Giê-xu? Bạn đang ở trong nan đề hay dự phần trong giải pháp của Chúa Giê-xu? Bạn là một trong những sự đáp lời của Ngài hay chỉ đơn thuần là một lời thắc mắc khác?”
Các thái độ được chúc phước này trình bày đặc tính của việc trở thành một Cơ Đốc Nhân. Bốn phép ẩn dụ, muối, ánh sáng,thành phố, và ngọn nến, theo sau các phước lành này trình bày về những thách thức xảy ra khi đặc tính của Cơ Đốc Nhân tác động lên văn hoá thế tục.
Cứ như là có một đường xích đạo thuộc linh ảo phân chia giữa phước lành thứ tư và thứ năm vậy. Tám phước lành này được chia thành hai phần, mỗi phần bốn phước lành. Bốn phước lành đầu tiên là những thái độ liên quan tới việc đến gần Đấng Christ, và bốn phước lành tiếp theo liên quan tới việc ra đi cho Đấng Christ. Bốn phước lành đầu tiên được phát triển trên đỉnh núi, hay trong mối quan hệ cá nhân của chúng ta với Đức Chúa Trời và Đấng Christ, nhưng bốn phước lành kế tiếp phải được học và phát triển trong mối quan hệ của chúng ta với người khác.
Các phước lành cũng được chia thành bốn cặp: người nghèo nàn về mặt tâm linh than khóc, người nhu mì đói khát sự công bình, người thương xót có tấm lòng trong sạch, và người đem lại hoà bình bị bắt bớ.
Mỗi cặp phước lành đều cho thấy một bí quyết thuộc linh mà một môn đồ của Chúa Giê-xu phải học trước khi họ có thể dự phần vào trong giải pháp và là một trong những lời giải đáp của Ngài. Hai phước lành đầu tiên,nghèo nàn về mặt tâm linh và than khóc, có ý nghĩa như sau: “Vấn đề không phải là tôi có thể làm gì mà là Ngài có thể làm gì.”
Cặp phước lành thứ hai, nhu mì và đói khát sự công bình,cho thấy bí quyết thuộc linh sau đây: “Vấn đề không phải là tôi muốn gì mà là Ngài muốn gì.” Cặp phước lành thứ ba, người thương xót có tấm lòng trong sạch,trình bày bí quyết thuộc linh: “Vấn đề không phải là tôi là ai hay tôi là gì mà là Ngài là ai hay Ngài là gì.”
Hai phước lành cuối cùng, người đem lại hoà bình bị bắt bớ, tập trung vào bí quyết thuộc linh mà chúng ta phải xưng ra khi Đấng Christ dùng chúng ta: “Tôi chẳng làm được gì cả, nhưng chính Ngài đã làm điều đó.” Sứ đồ Phao-lô viết cho người Cô-rinh-tô rằng khi ông thực hiện chức vụ của mình trong thành phố của họ thì không có điều gì đến từ ông, và mọi thứ đều đến từ Đức Chúa Trời (IICo 3:5).
Từ “Phước cho” là một từ nên được định nghĩa. Trong một số bản dịch thì nó được dịch là “hạnh phúc”. Nó đồng hành với sự vui mừng, tức bông trái của Đức Thánh Linh (Ga 5:22,23). Sự vui mừng được chúc phước này có thể được diễn giải như là niềm hạnh phúc mà không tạo nên cảm giác hưng phấn bởi vì nó đến từ sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong đời sống chúng ta và không bị chi phối bởi hoàn cảnh.
“Sự thịnh vượng về mặt thuộc linh” là một một cách dịch khác của chữ “Phước cho”. Giàu có về mặt thuộc linh không có nghĩa là giàu về tài sản kinh tế. Nếu tài sản kinh tế là định nghĩa của từ này thì có nghĩa là không có sứ đồ nào được chúc phước cả. Bởi vì khi họ sống theo những phước lành này của Chúa Giê-xu, họ chẳng giàu có gì mà lại phải gánh chịu những cái chết khủng khiếp.

Leave a Comment