BÓNG TỐI VÀ BÌNH MINH - BÀI 4: BA GIỜ SÁNG
BÀI 4: BA GIỜ SÁNG

Ba giờ sáng

“Cũng khuyên bọn trẻ tuổi, hãy phục theo các trưởng lão. Hết thảy đối đãi với nhau phải trang sức bằng khiêm nhường; vì Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, mà ban ơn cho kẻ khiêm nhường.
Vậy,hãy hạ mình xuống dưới tay quyền phép của Đức Chúa Trời, hầu cho đến kỳ thuận hiệp Ngài nhắc anh em lên;” (IPhi 5:5-6)
Tất cả những lời tương tự như vậy được tìm thấy trong IPhi 5:5-6. Chúng tiêu biểu cho một số những câu mềm mại nhất trong cả Kinh Thánh, bởi vì chúng được viết ra bởi một người biết rất ít về sự khiêm nhường, nhưng rồi ông đã học được điều đó từ chính Chúa. Phi-e-rơ, một tay đánh cá gan dạ, dày dạn gió sương, đầy phong trần, xuất thân từ vùng Ga-li-lê, là một người rất can đảm, mặc dù hơi kiêu ngạo một chút, ông đã từng thề nguyện rằng sẽ trung thành với Chúa Cứu Thế mãi mãi, có lẽ quý vị vẫn còn nhớ. Tuy nhiên, trước khi lòng kiên quyết dũng cảm, gan dạ ấy có cơ hội chiếu sáng, nó đã tan chảy một cách nhanh chóng trong sức nóng của ngọn lửa đêm khuya, của những người lính La-mã vào một buổi tối nọ. Với sự sụp đổ thuộc linh, sứ đồ Phi-e-rơ đã phải đối diện với chính sự yếu đuối của ông.
Chúng ta xem thấy trong Ch 18:12, Sa-lô-môn đã từng viết rằng: “Sự khiêm nhường đi trước sự tôn trọng.” Đó là một bài học mà Phi-e-rơ, có lẽ tôi có thể thêm,và cả những môn đồ khác nữa đã học được một cách rất khó khăn. Trong Phúc Âm Mác 14, chúng ta thấy một câu chuyện rất thương tâm hòa lẫn với sự dũng cảm và sự hèn nhát. Nó cũng bao gồm cả sự kiên quyết và sự khước từ.
Trong suốt sứ điệp ngày hôm nay, chúng ta sẽ có cơ hội để trắc nghiệm lại lòng trung thành của chính mỗi người chúng ta đối với Chúa Cứu Thế, và tự kiểm điểm lại với tác giả của bài Thánh ca xưa rằng: “Có phải chỉ một mình Chúa Giê-xu mang thập tự giá, / Và tất cả mọi người trên thế giới đều được tự do không?”
Chúng ta hãy cùng đọc về bài thi trắc nghiệm của sứ đồ Phi-e-rơ trong Phúc Âm Mac 14:27-31,53-54,66-72.
Mac 14:27-31
“Chúa Giê-xu phán cùng môn đồ rằng: Hết thảy các ngươi sẽ gặp dịp vấp phạm; vì có chép rằng: “Ta sẽ đánh kẻ chăn chiên, thì bầy chiên sẽ tan lạc.”
Nhưng khi Ta sống lại rồi, Ta sẽ đi đến xứ Ga-li-lê trước các ngươi.”
Phi-e-rơ thưa rằng: “Dầu mọi người vấp phạm vì cớ thầy,nhưng tôi chẳng hề làm vậy.”
Đức Chúa Giê-xu đáp rằng: “Quả thật Ta nói cùng ngươi, hôm nay,cũng trong đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, ngươi sẽ chối ta ba lần.” (AIFL-861, TS).
“Nhưng Phi-e-rơ lại thưa cách quả quyết hơn rằng: “Dầu tôi phải chết cùng thầy, tôi cũng chẳng chối thầy đâu!” Hết thảy các môn đồ khác cũng đều nói như vậy.”
14:53-54,
“Chúng điệu Đức Chúa Giê-xu đến nơi thầy cả thượng phẩm, và có hết thảy thầy tế lễ cả,trưởng lão, và thầy thông giáo đều nhóm họp tại đó.
Phi-e-rơ theo sau Ngài xa xa, cho đến nơi sân trong của thầy cả thượng phẩm; rồi ngồi với quân lính gần đống lửa mà sưởi.”
14:66-72,
“Khi Phi-e-rơ đương ở dưới nơi sân, có một đầy tớ gái của thầy cả thượng phẩm đến,thấy Phi-e-rơ đương sưởi, ngó người mà rằng: “Ngươi trước cũng ở với Giê-xu Na-xa-rét!”
Nhưng ông chối rằng: “ta không biết, ta không hiểu ngươi nói chi.” Đoạn, ông bước ra tiền đàng, thì gà gáy.
Đầy tớ gái đó thấy ông và lại nói cùng những người ở đó rằng: “Người nầy cũng là bọn đó.”
Nhưng Phi-e-rơ lại chối một lần nữa. Khỏi một chặp, những kẻ đứng đó nói cùng ông rằng: “Chắc thật, ngươi cũng là bọn đó, vì ngươi là người Ga-li-lê.”
Nhưng Phi-e-rơ bèn rủa mà thề rằng: “Ta chẳng hề quen biết với người mà các ngươi nói đó!” Tức thì gà gáy lần thứ hai; và Phi-e-rơ bèn nhớ lại lời Đức Chúa Giê-xu đã phán rằng: “Trước khi gà gáy hai lần, ngươi sẽ chối ta ba lần.” Ông nhớ đến điều đó và khóc.”
Như quý vị thấy đấy, tất cả những điều này dẫn chúng ta đến việc đặt câu hỏi: “Làm thế nào mà lòng kiên quyết của Phi-e-rơ đã tan mất hoàn toàn trong sự chối Chúa như vậy?” Làm thế nào để nhân vật này, người vừa trước đó tuyên bố mạnh mẽ rằng: “Tôi sẽ không bao giờ chối bỏ thầy,” nhưng sau đó đã chối Chúa như thế chứ? Hình như phần lớn là do nỗi sợ hãi đã tràn ngập lòng của ông. Phi-e-rơ và những môn đồ khác đã tìm thấy sự lôi cuốn với ý tưởng đi theo Chúa Cứu Thế trong sự nổi bật từ những lời tung hô của quần chúng. Ý của tôi là chúng ta hãy đối diện với nó, một sự hứng khởi chắc chắn đi kèm với việc được nhìn thấy xuất hiện bên cạnh Chúa Giê-xu. Nhưng khi mọi thứ trở nên nguy hiểm, khi tình thế đã bị đảo lộn, khi mà bóng tối phủ trùm, và khi mà cuộc sống của họ như ngàn cân treo sợi tóc, thì đức tin của họ ngay lập tức liền bị chao đảo.
Quan điểm của ông Mác thật rõ rằng: Theo Chúa không phải là một cuộc sống dễ dàng.Nó chắc chắn sẽ bắt chúng ta phải trả giá điều gì đó mỗi ngày.
Chúng ta hãy dừng lại một chút để suy nghĩ về sự thất bại và sự ăn năn của sứ đồ Phi-e-rơ mà ông chắc chắn đã kinh nghiệm khi chối bỏ bạn bè và chính Chúa Cứu Thế của mình.
Sứ điệp của chúng ta hôm nay sẽ làm rõ hơn cho những người đã từng nghĩ rằng cuộc sống của một Cơ Đốc nhân như là một lối đi đầy hoa, thì tốt nhất là họ nên suy nghĩ lại! Nhà giải kinh Raymond Brown đã viết: “Mác đã rất nghiêm chỉnh khi ghi lại câu nói của Chúa Giê-xu rằng ‘nếu ai muốn theo Ngài thì phải liều mình vác thập tự giá,’ và Mác không mong đọc giả bị lừa dối về những khó khăn của việc liều mình này. Khi các môn đồ của Chúa Giê-xu là những người đã cùng đi theo Ngài một cách rất thân mật, gần gũi, và là người thật sự đã bắt đầu với sự bước đi theo Chúa, khi đối diện với vấn đề cùng đi với Ngài suốt trên con đường dẫn đến thập tự giá, thì họ đã bị vấp phạm và thậm chí họ đã chối Chúa. Phi-e-rơ đã ở trong sự đánh giá thấp thử thách mà ông đang đối diện. Quý vị có còn nhớ những lời đoan quyết của ông không? ‘Dầu mọi người vấp phạm vì cớ thầy, nhưng tôi chẳng hề làm vậy.’ Và ông đã khiến cho hết thảy các môn đồ khác cũng đều đi đến chỗ khẳng định rằng họ sẽ không dễ bị vấp phạm đâu.” Đó quả là những lời nói rất hay.
Như chúng ta đã chú ý thấy trong Mac 14:27 rằng từ “bị vấp phạm” không có nghĩa là đánh mất đức tin của chúng ta, nhưng là lùi bước khi có một thế lực bên ngoài đe dọa đức tin đó. Cụm từ “vác thập tự giá và đi theo” có nghĩa là giao phó toàn bộ cuộc sống của chúng ta cho Ngài trong mọi thời điểm, mọi khía cạnh. Và thường là đòi hỏi cả sự liều mình.
Ngày nay có lẽ hầu hết chúng ta không bao giờ phải đương đầu với một quyết định giữa cái sống và cái chết liên hệ đến việc đứng vững với Chúa Cứu Thế. Chúng ta hãy đối diện với nó. Nhưng tất cả chúng ta sẽ gặp điều này trong những cơ hội làm chứng về sự tin cậy của chúng ta nơi Ngài. Và khi những cơ hội đó bị mất, hậu quả là chúng ta chối Chúa khi sự sợ hãi đã ghìm chặt chúng ta hoàn toàn.
Tôi không nghĩ là có bất kỳ sự nghi ngờ nào trong đầu của bất cứ một ai rằng Phi-e-rơ là một sứ đồ nổi bậc nhất trong tất cả các sứ đồ. Không nghi ngờ gì cả, một trong những nguyên Phi-e-rơ trở nên người như thế là bởi vì ông dường như quá minh bạch, quá con người, quá thật khiến chúng ta đồng cảm với ông,trước khi đồng cảm với bất cứ môn đồ nào khác.
Chính ông là nhân vật mà chúng ta đang để sự chú ý của mình vào trong buổi tối hôm đó. Và chúng ta làm như vậy cùng với sự cảm kích thật về cách mà Chúa đã đặt trong lẽ thật của lời Ngài về cuộc sống của người đàn ông này. Quý vị có thể tưởng tượng có bất cứ thứ gì khác làm cho chúng ta lúng túng hơn việc Chúa lấy một loạt sự phản bội hay sự chối Chúa trong cuộc đời của quý vị, đặt chúng trong lời của Ngài, và cho phép thế kỷ của sự rao giảng làm việc vượt qua những sự chối từ đó từ năm này đến năm khác với cái tên của quý vị đính kèm vào không? Đó là những gì chúng ta có được, cám ơn Chúa và cám ơn sứ đồ Phi-e-rơ cùng với sự kiện rất thực mà người đàn ông này đã sống cuộc đời như vậy, và đã đối diện với chính loại ân điển ấy mà Đức Chúa Trời đã ban cho ông khi Ngài tha thứ cho ông.
Bây giờ chúng ta bước vào quang cảnh trong Mác 14 ngay khi mà Chúa Giê-xu và các môn đồ của Ngài dự bữa ăn cuối cùng với nhau. Họ họp nhau lại tại một căn phòng tương đối nhỏ tại lầu hai; và ở tại đó họ đã bắt đầu bữa ăn tối cuối cùng. Bữa ăn thì không long trọng gì. Nó không bao gồm các nghi thức tế lễ. Thực ra nó chỉ hơi nghiêm trọng một chút và đơn sơ thôi. Họ ngồi trên sàn nhà, chính xác là trên một cái nệm nhỏ mà chúng ta có thể gọi chúng là những tấm thảm nhỏ,ngồi quây quanh một cái bàn gỗ và thấp hơn bàn bình thường của chúng ta. Đó là một cái bàn mà xung quanh là những người nam, người nữ, những người bạn, gia đình quây quần bên nhau trong những bữa ăn của họ. Và Chúa Giê-xu cùng các môn đồ Ngài ngồi thành một nhóm nhỏ riêng biệt, tụ họp xung quanh một cái bàn thấp và họ đang ngồi trên sàn nhà. Họ ngồi dựa tay trên cái bàn. Họ kết thúc bữa ăn bằng một bài thánh ca như được chép trong Mac 14:26. Và sau đó họ đi ra đặng lên núi Ô-li-ve. Họ đã dừng lại tại một khu vườn có tên là Ghết-sê-ma-nê trên đường đi, và tại đó họ có thể cầu nguyện với nhau. Nhưng trong khoảng thời gian giữa lúc rời khỏi phòng cao và đến khu vườn, thì chắc hẳn đã có một cuộc đối thoại ngắn giữa Chúa Giê-xu và các môn đồ của Ngài. Sứ đồ Giăng, cùng với Ma-thi-ơ, Mác và cả Luca đều ghi lại câu chuyện đối thoại này và cả những lời bảo trước của Chúa. Nhưng chúng ta chọn Mác, bởi vì trong đoạn 14 này sứ đồ Phi-e-rơ dường như được nhấn mạnh nhiều hơn. Ông được đan dệt trong suốt những câu này. Vì thế, trong câu 27, Chúa Giê-xu đang trò chuyện với các môn đồ của Ngài, khi họ đang cùng đi với Ngài trên đường phố trong thành Giê-ru-sa-lem để đến vườn Ghết-sê-ma-nê. Và Ngài đã phán với họ (lúc bấy giờ chỉ còn 11 môn đồ vì Giu-đa đã bỏ đi, chỉ có 11 người cùng đi với Chúa Giê-xu mà thôi).
“.. . Hết thảy các ngươi sẽ gặp dịp vấp phạm, vì có chép rằng: Ta sẽ đánh kẻ chăn chiên, thì bầy chiên sẽ tan lạc.
Nhưng khi Ta sống lại rồi, ta sẽ đi đến xứ Ga-li-lê trước các ngươi.”
Lúc đó Phi-e-rơ đã không nghe lời tiên tri. Ông cũng không nghe cả lời nói trước về sự sống của Chúa. Tất cả những gì ông nghe là: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp phạm.” Từ ngữ “vấp phạm” được lấy từ một từ gốc trong tiếng Hy-lạp, từ đó có nghĩa là “trượt chân hay vấp ngã.” Vậy “hết thảy các ngươi sẽ bị trượt chân,”hay “hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã.” Đó là chính là ý tưởng ở đây. Trong một bản dịch khác đã dịch như thế này: “Mọi người trong các ngươi sẽ quay lại chống nghịch cùng Ta, rời khỏi Ta và bỏ Ta đi, mọi người trong các ngươi đều như vậy.”
Lúc bấy giờ Phi-e-rơ đã suy nghĩ (chỉ một mình ông có thể nghĩ như vậy): “Điều này có lẽ đối với các môn đồ khác là sự thật, nhưng đối với Phi-e-rơ thì không.” Và đó cũng chính là lý do tại sao ông nói, hoàn toàn như là một hành động quả quyết trước tất cả các môn đồ còn lại xung quanh ông rằng: “Dầu tất cả mọi người có thể vấp phạm (và tôi có thể thấy sự thô kệch của ông, bàn tay đánh cá to lớn hướng về cả nhóm), cho dù HẾT THẢY mọi người có lẽ vấp phạm nhưng dĩ nhiên tôi thì không!” Đó là cách được viết trong nguyên bản Kinh Thánh nhằm truyền đạt ý tưởng của sự nhấn mạnh tuyệt vời này. “Tất cả trong số này có lẽ sẽ vấp phạm, NHƯNG, trong tất cả mọi điều, tôi sẽ chẳng hề như vậy! Tôi sẽ không vấp phạm!” Đó chính là sự suy nghĩ của ông.
Tôi nghĩ, với một tiếng thở dài mà Chúa Giê-xu đáp rằng,
“.. . Quả thật, ta nói cùng ngươi, hôm nay, cũng trong đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, ngươi sẽ chối ta ba lần.” (Mac 14:30)
Lúc bấy giờ Chúa đã nói hai câu khẳng định rất thấm thía đối với Phi-e-rơ.“Phi-e-rơ, ngươi không chỉ sẽ chối ta, mà. . . ngươi còn chối ta ngay trong đêm nay!”
Bấy giờ, sứ đồ Phi-e-rơ, giống nhiều người trong chúng ta, đã mắc chứng bệnh nhanh mồn, nhanh miệng. Phi-e-rơ là một nhân vật thường đi quá trớn hơn những gì ông có thể, chỉ vì những ý tưởng chợt đến của chính ông, nhưng hãy cho ông một lợi ích nào đó của việc nghi ngờ. Ông đã chợt thấy tự tin. Ông cảm biết được lòng trung thành đủ để bước đi đến tại thời điểm quan trọng là chết cho Chúa Giê-xu.Và tại thời điểm lúc bấy giờ, vào cuối bữa ăn tối, sau khi họ đã cùng nhau hát thơ thánh và cảm xúc dường như đã đạt đến tột đỉnh, nên ông đã nói với Chúa rằng: “Lạy Chúa, thế giới này có thể sẽ đi đến ngày kết thúc trước khi tôi chối Ngài. Tất cả bọn họ thì có thể, nhưng tôi thì không!”
Chúa Giê-xu đã trả lời rằng: “Không đâu, chính đêm nay ngươi sẽ chối Ta.” Và câu khẳng định đau nhói thứ hai là: “Ngươi không chỉ chối ta một lần, mà ngươi sẽ chối ta đến ba lần khác nhau trước khi màn đêm trôi qua.”
Tôi khám phá ra được điều thật thú vị khi đọc đến chỗ nói về tiếng gà gáy trong câu 30, và hầu như được ghi lại trong cả 4 sách Phúc Âm. Bởi đa số người không biết rằng không một con gà trống nào được phép nuôi tại Giê-ru-sa-lem, nhất là trong ngày Lễ Vượt Qua. Vì thế, câu hỏi được đặt ra là con gà này là gì và tiếng gà gáy ở đâu ra nếu như thực sự không có con gà nào cả? Tôi đã làm một cuộc nghiên cứu nhỏ về điều này, và tôi khám phá ra những gì tôi nghĩ chính là câu trả lời.Hầu hết mọi người khi giảng về điều này, hay khi dạy về điều này, thì đều cho rằng đó là một con gà, và đó chính xác là tiếng gà gáy.
Trong thời La mã, người ta có một cách chia thời gian ra trong ngày theo một cách độc đáo – theo từng khoảng ba giờ đồng hồ. Những khoảng thời gian ban ngày được gọi là giờ, còn những khoảng thời gian ban đêm thì được gọi là canh. Đêm bắt đầu từ 6 giờ chiều, mỗi đêm có bốn canh, mỗi canh 3 giờ. Canh thứ nhất bắt đầu từ 6 giờ cho đến 9 giờ tối. Canh thứ hai từ 9 giờ cho đến nửa đêm. Canh thứ ba từ nửa đêm đến ba giờ khuya và canh thứ tư là từ 3 giờ cho đến 6 giờ sáng. Đó là các canh trong một đêm. Sở dĩ được gọi là canh do việc đổi phiên gác của người lính, cũng giống như trong quân đội ngày nay. Canh thường được sử dụng trên các đường phố, trong giới truyền thông trong thời đó, họ dùng để chỉ khi nào thì đến một canh khác. Canh thứ ba của đêm là từ giữa đêm cho đến 3 giờ sáng.
Người Do-Thái cũng có một cách thú vị nhất để tính thời gian. Họ thường nói tắt khi nói. Và họ cũng chỉ có một cách độc đáo để tính các canh trong một đêm. Nhờ câu Kinh Thánh trong Mac 13:53 đã cho chúng ta biết có bốn cụm từ được sử dụng để nói về các canh.
“Vậy,các ngươi hãy thức canh, vì không biết chủ nhà về lúc nào, hoặc chiều tối (chỉ về cuối canh một, tức 9 giờ tối), hoặc nửa đêm (chúng ta vẫn dùng cách diễn tả này ngày nay), hoặc lúc gà gáy (đó là cuối canh ba), hay là sớm mai (và đó là vào cuối canh tư).”
Mời quý vị hãy nhìn vào thời điểm cuối của canh ba, “lúc gà gáy.” Như quý vị thấy đấy, trong thời người Do Thái, và nhất là khi họ ở dưới ách trị vì của người La-mã, có một dấu hiệu nổi lên lúc giữa đêm khi hết canh ba. Và dấu hiệu đó chính là tiếng gà gáy. Ngoại trừ trong trường hợp này, thì đó không phải là một con gà, mà đó là một tên lính thổi kèn, người đã được chỉ huy của bộ phận canh gác giao cho việc báo hiệu giờ thay canh. Khi lính đổi canh, một hồi kèn được thổi lên. Và trong suốt thời gian Lễ Vượt Qua, do bởi có một số lượng lớn người dân ở khắp nơi đổ về để dự lễ trong thành Giê-ru-sa-lem, nên thường có đến hai tiếng kèn được thổi kên về hai hướng khác nhau. Và việc đó được gọi đơn giản là “tiếng gà gáy.” Nếu như quý vị dự định gặp một người nào đó vào lúc 3 giờ sáng thì quý vị nên nói rằng: “Tôi sẽ gặp anh vào lúc gà gáy nhé.” Và đó chính là khoảng thời gian mà chúng ta muốn hẹn. Lúc đó sẽ có hai tiếng kèn được thổi lên.
Và thời điểm lúc bấy giờ nhằm ngày dịp lễ Vượt qua. Và đó chính là những gì mà Chúa Giê-xu muốn nói khi Ngài phán với Phi-e-rơ rằng: “Chính đêm nay, trước khi ngươi nghe hai tiếng kèn cất lên, thì ngươi sẽ chối Ta ba lần.” Xin nói thêm điều này cũng cho chúng ta biết rằng, sự chối Chúa của Phi-e-rơ xảy ra trước 3 giờ sáng, bởi vì đó chính là lúc có tiếng gà gáy.
Bây giờ chúng ta hãy quay trở lại câu 31. Và quý vị sẽ nhìn thấy một lần nữa về cái tính ngoan cố của tấm lòng rất trung thành này và là một môn đồ rất trong sáng.Mac 14:31.
“Phi-e-rơ lại thưa cách quả quyết hơn rằng: Dầu tôi phải chết cùng thầy, tôi cũng chẳng chối thầy đâu!
Rồi hết thảy các môn đồ khác cũng đều nói như vậy.”
Quý vị không thể hình dung ra điều đó phải không? “Cả tôi cũng vậy. Đúng rồi Phi-e-rơ, cả tôi cũng thế.” Và quý vị đã thấy cả nhóm môn đồ đều giống như thế.“Đúng rồi, tôi đồng ý với anh. Và tôi cũng như thế.” Có vẻ như hết thảy họ đều rất trung thành, rất trung thành trong sự im lặng âm thầm trong nhóm nhỏ của họ. Không ai trong bọn họ nghĩ rằng mình sẽ nuốt lời, nhưng họ đã làm như thế.
Nhưng trước khi họ nuốt lời, thì đã có một buổi cầu nguyện với nhau tại vườn Ghết-sê-ma-nê. Và nếu như quý vị xem câu 32-36 thì quý vị sẽ thấy,
“Họ đi đến một nơi kia gọi là Ghết-sê-ma-nê; và Đức Chúa Giê-xu phán cùng môn đồ rằng: các ngươi hãy ngồi đây, đợi ta cầu nguyện.
Và rồi Ngài đem Phi-e-rơ, Gicơ và Giăng cùng đi với Ngài, thì Ngài khởi sự kinh hãi và sầu não.
Ngài phán cùng ba người rằng: Linh hồn ta buồn rầu lắm cho đến chết; các ngươi hãy ở đây và tỉnh thức.
Rồi Ngài đi một đỗi xa hơn, sấp mình xuống đất mà cầu nguyện rằng nếu có thể được,xin giờ này qua khỏi mình.
Rồi Ngài thưa rằng: A-ba, lạy Cha! Mọi việc Cha làm được cả; xin Cha cất chén này khỏi con; nhưng không theo điều con muốn, mà theo điều Cha muốn.”
Bây giờ câu 37,
“Rồi Ngài trở lại, thấy họ đang ngủ, . . .”
“Họ”là ai? Có phải Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng. Ngài trở lại thì thấy cả ba người này đang ngủ. Quý vị chú ý là Chúa đã nhắm vào một người trong số ba người đó. Ngài nhắm vào Phi-e-rơ. Tại sao Ngài lại gọi Phi-e-rơ mà phán cùng? Bởi vì Phi-e-rơ là người đã nói rằng: “Hết thảy những người này có thể sẽ chối Chúa nhưng tôi thì không!” Nhưng ngay lúc này ông lại đang ngủ say. Trong khi Chúa Giê-xu đã phán với ông là phải tỉnh thức.
Tôi muốn quý vị cũng để ý là Chúa Giê-xu đã gọi ông là “Si-môn.” Điều này có lẽ không có ý nghĩa gì nhiều đối với quý vị, nhưng đó chính là cái tên trước kia của Phi-e-rơ, hay đó chính là tên thật của ông trước khi Chúa Giê-xu đổi tên cho ông. Trước đó Chúa Giê-xu đã đặt tên cho ông là Phi-e-rơ. Và từ này có nghĩa là “đá.” Nhưng khi Chúa Giê-xu quay trở lại để tìm ông một lần nữa thì ông đang ngủ, hoặc ít nhất thì ông cũng đang bắt đầu lãng quên lời nói của mình,Chúa Giê-xu đã gọi “Si-môn.” Từ “Si-môn” được cho là ý tưởng của “một người hay dao động” - “một người không kiên quyết.” Rồi Ngài phán với ông rằng,
“.. . Si-môn, ngươi ngủ ư? Ngươi không thể thức được một giờ sao?
hãy tỉnh thức và cầu nguyện để các ngươi không sa vào chước cám dỗ; tâm thần thì muốn lắm nhưng xác thịt thì yếu đuối.
Rồi Ngài lại đi lần nữa, và cầu nguyện y như lời trước.”
Và quý vị quen thuộc với phần đó rồi.
Bây giờ xin mời quý vị xem Mac 14:50. Chúng ta chớ nên quá gay gắt với một mình Phi-e-rơ.Giữa từ câu 37 và câu 50, chúng ta thấy việc xông đến của bọn lính cùng với cái hôn của Giu-đa. Và bây giờ thì Chúa Giê-xu đã bị bắt. Câu 50 chép rằng: “Tất cả đều bỏ Ngài mà trốn đi.” Đó chính là những người đã sớm nói với Chúa rằng: “Chúng tôi sẽ không lìa bỏ Ngài. Chúng tôi sẽ không phản bội Ngài. Chúng tôi trung thành đến cuối cùng. Chúng tôi sẽ luôn ở đây, cho dù những người khác có thể bỏ đi.” Nhưng câu này đã ghi rõ là: “Tất cả họ đã bỏ Ngài nà trốn đi.”
Câu 53,
“Chúng điệu Đức Chúa Giê-xu đến nơi thầy cả thượng phẩm, và có hết thảy thầy tế lễ cả,trưởng lão, và thầy thông giáo đều nhóm họp tại đó.
Còn Phi-e-rơ thì theo sau Ngài xa xa, cho đến nơi sân trong của thầy cả thượng phẩm; rồi ngồi với quân lính gần đống lửa mà sưởi.”
Điều này không thú vị sao quý vị? Phi-e-rơ đã bỏ Chúa Giê-xu. Và mặc cho Ngài một mình cùng với bọn lính bắt Ngài đi. Rồi một cuộc nhạo báng đã bắt đầu đi song song với sự tra tấn Chúa Giê-xu cùng với sự đóng đinh Chúa trên cây thập tự. Và rồi quý vị sẽ thấy Phi-e-rơ lúc này lui vào bống tối trong suốt những giờ lạnh lẽo khuya hôm đó. Tôi có thể hình dung ra ông cùng với chiếc áo choàng quấn xung quanh người, và cả khuôn mặt của ông nữa, để che phủ nguồn gốc của mình,nhưng Phi-e-rơ cũng tò mò muốn biết sự việc sẽ như thế nào. Ông đang đi theo Chúa Giê-xu từ xa xa, và quý vị có thể tin rằng đây là một khoảng cách rất an toàn. Hãy xem những người mà ông đang ở với tại sân trong của thầy cả thượng phẩm.
“.. . rồi ngồi với quân lính gần đống lửa mà sưởi.”(Mac 14:54)
Ngay giữa những người có địa vị cao trong hoàn cảnh ấy. Phi-e-rơ không tiết lộ nguồn gốc của mình. Ông đứng và sau đó lại ngồi một cách lặng lẽ với họ.
Bây giờ hãy thả lỏng đầu óc quý vị để tưởng tượng ra quang cảnh ngày đó. Tại đây Chúa Giê-xu đã bị vả, bị làm nhục, bị phỉ nhổ và nhạo báng, bị nhiếc móc với tất cả những lời buộc tội vô lý đối nghịch với nhân cách của Ngài, Chúa đứng yên lặng và hy sinh giữa sự hiện diện của họ, và tại đó cũng có Phi-e-rơ, ông đã đứng bên lề sự việc và chối bỏ Chúa.
Chúng ta hãy xem tiếp xuống câu 65,
“Có kẻ nhổ trên Ngài, đậy mặt Ngài lại, đánh Ngài và nói với Ngài rằng: Hãy nói tiên tri đi! . . .”
Quý vị có thể tưởng tượng ra cảnh tượng đó được không? Chúng bịt mắt Ngài lại và sau đó chúng lại đấm vào Ngài rồi hỏi: “Nói cho chúng ta biết ai đánh ngươi?”Rồi họ lại tiếp tục đấm Ngài lần nữa. “Hãy nói đi, hãy đoán xem ai đánh ngươi hỡi nhà tiên tri, Đấng Mê-sia!” Câu 65 nói rằng: “Các lính canh tát vào mặt Ngài.”
Và đây, một lần nữa Phi-e-rơ.
“Khi Phi-e-rơ đương ở dưới nơi sân, có một đầy tớ gái của thầy cả thượng phẩm đến,thấy Phi-e-rơ đương sưởi, ngó người mà rằng: Ngươi trước cũng ở với Giê-xu Na-xa-rét!” (14:66-67)
Tại đây có một câu hỏi được đặt ra: Làm thế nào mà cô ta thấy được Phi-e-rơ nếu như trời tối như vậy? Vì ông đang ngồi gần đống lửa. Và chỉ với một chút tưởng tượng thôi thì cũng có thể hình dung ra sự việc có thể đã xảy ra thế nào. Có lẽ đã có một người nào đó xen vào bên đống lửa, hoặc quăng một khúc gỗ vào đó, làm cho đống lửa cháy rực lên, và với ánh lửa rực rỡ đó đã làm vụt lên một ánh sáng đủ để gương mặt của Phi-e-rơ bị lộ ra. Có lẽ lúc này ông đã lột chiếc áo choàng để xuống rồi. Và cũng có thể là người đầy tớ gái này đã từng thấy ông cùng đi với các môn đồ khác trong những ngày trước đây. Bởi vì đây không phải là một cảnh tượng xa lạ trong những ngày trước trong chức vụ của Chúa Giê-xu, cô ta thấy Phi-e-rơ và đã nhớ ra: “Đây là một trong những môn đồ của Ngài.” Và cô bảo: “Ngươi trước cũng ở với Giê-xu Na-xa-rét. Ngươi là một trong số họ!” Ngay lúc đó, lập tức Phi-e-rơ đã quên hẳn những lời đã thề nguyền với Chúa trước đó,câu 68,
“Nhưng người chối rằng: Ta không biết, ta không hiểu ngươi nói chi. Đoạn, người bước ra tiền đàng, . . .”
Tôi sẽ không xây dựng lại cảnh này, nhưng tôi muốn quý vị hiểu rằng khi ông bước ra ngoài hành lang, thì đó là một khoảng cách an toàn hơn. Ông đã bước ra xa hơn một chút nữa để tránh không cho ai nhận ra ông và cho ông là một trong số các môn đồ. Phi-e-rơ đã trên con đường đi xuống. Và ông đã ngủ tại vườn Ghết-sê-ma-nê. Ông đã bỏ Chúa và lẫn trốn, dựa vào câu 50. Ông theo Chúa nhưng với một khoảng cách an toàn. Và lúc này ông bắt đầu chối Chúa. Rồi lần đầu tiên ông chối Chúa là trong câu 68,
“Nhưng người chối rằng: Ta không biết, ta không hiểu ngươi nói chi. . . .”
Nhưng người đầy tớ không bỏ cuộc. Câu 69,
“Đứa đầy tớ gái thấy ông và một lần nữa cô lại nói với những người ở đó rằng: Người này cũng là trong bọn đó!”
Bây giờ thì khác rồi. Trước đó thì cô nói với Phi-e-rơ. Còn bây giờ thì cô lại nói điều này với đám đông. Cô quay xung quanh và nói: “Hãy nghe tôi, tôi đang nói sự thật. Người này là một trong số bọn đó!” Và vì thế nên mọi người nhìn vào ông, chứ không phải nhìn đứa đầy tớ này. Và Kinh Thánh nói rằng,
“.. . ông lại chối một lần nữa (đó là lần chối Chúa thứ hai trong câu 70). Khỏi một chặp, những kẻ đứng đó nói cùng Phi-e-rơ rằng:Chắc thật, ngươi cũng là bọn đó, vì ngươi là người Ga-li-lê.”
Làm thế nào họ lại biết điều đó? Bằng cách nào mà họ biết rằng Phi-e-rơ là một người Ga-li-lê? Một trong bốn sách Phúc Âm chép rằng chính giọng nói của Phi-e-rơ đã phản bội lại ông, nghĩa là chính tiếng nói của ông đã khai ông ra.Tôi mỉm cười bởi vì chính giọng nói của chúng ta lại làm hại chúng ta, có đúng không quý vị?
Tôi hiểu ra rằng người Ga-li-lê rất khó phát âm một số từ đặc biệt đang được dùng tại Giê-ru-sa-lem lúc bấy giờ. Họ gặp khó khăn trong việc phát âm giống người dân tại Giê-ru-sa-lem. Và vì thế, khi Phi-e-rơ ở tại Giê-ru-sa-lem, ông là một người được nhận diện cách dễ dàng. Như quý vị biết đấy, người Ga-li-lê bị coi là những người ngu đần và dốt nát. Là những người chỉ biết một thứ tiếng, hay nhiều lắm là hai, người Ga-li-lê cảm thấy thật khó để hòa nhập với những người La-mã là những người thường hay nói nhiều thứ tiếng, nhất là các sĩ quan. Và đó chính là nhóm người mà Phi-e-rơ đang ngồi chung. Còn Phi-e-rơ, trong tiếng phổ thông riêng biệt của ông, với ngôn ngữ miền quê, ông đã quát to lên: “Tôi không phải! Tôi không biết Ngài! Tôi không hiểu gì cả.” Còn đám đông đó đáp lại rằng:“Ừ hử. Ừ hử, đó chính là người Ga-li-lê đang nói.”
Quý vị nào là người nam từng đi ra miền trung, miền bắc, hay ngược lại thì hiểu rõ điều này. Quý vị không thể giấu được nguồn gốc của mình. Khi nói chuyện, người ta nhận ra ngay quý vị là người miền nam, hoặc ngược lại.
Cho nên thật không có gì là khó để hiểu rằng tại sao những người tại đó lại khẳng định: “Hắn là người Ga-li-lê! Hắn không nói giọng giống chúng ta.” Và bây giờ quý vị để ý thấy rằng, có lẽ điều khác không hiệu quả, nhưng lời nguyền rủa và thề thốt thì hiệu quả trong bất kỳ ngôn ngữ nào. Phi-e-rơ đã lộ rõ ra giọng bản xứ của mình khi ông rủa mà thề cùng đám đông trong câu 71,
“Người bèn rủa mà thề rằng: Ta chẳng hề quen biết với người mà các ngươi nói đó!”
Phải thừa nhận rằng điều này có nghĩa là ông đã nhơn danh Đức Chúa Trời nguyền rủa:“Nếu tôi là một người nói dối thì Chúa hãy ném tôi ra khỏi trái đất này đi.”Đây đúng là một câu nói hồ đồ làm sao! Hay ít nhất thì ông cũng đã dùng những lời báng bổ mà dường như thích hợp với mọi ngôn ngữ. Và trong cái ngôn ngữ bẩn thỉu của đường phố ông nói: “Đừng kết nối tôi với các môn đồ khác.”
Lúc bấy giờ, bất ngờ có hai sự việc xảy ra. Trước hết là có tiếng gà gáy. Ngay tức khắc Phi-e-rơ đã đánh mất chính ông trong sự bảo vệ lai lịch của mình. Câu 72 nói rằng: “Tức thì gà gáy lần thứ hai.”
Quý vị hãy giữ Kinh Thánh của quý vị ở chỗ này, chúng ta sẽ quay lại sau, nhưng bây giờ xin mời quý vị hãy cùng tôi xem trong Phúc Âm Lu-ca thử xem việc thứ hai xảy ra là gì. Chúng ta cùng mở ra trong Phúc Âm Lu 22:60,
Nhưng Phi-e-rơ cãi rằng: Hỡi người, ta không biết ngươi nói chi! Đương lúc Phi-e-rơ còn nói, thì gà liền gáy.
Rồi Chúa Giê-xu xây mặt lại ngó Phi-e-rơ. Phi-e-rơ nhớ lại lời Chúa đã phán cùng mình rằng: Hôm nay trước khi gà chưa gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần. (AIFL-862, TS).
Quý vị hãy xem lại những từ này trong câu 61, “Chúa Giê-xu xây mặt lại ngó Phi-e-rơ.” Chúng ta không thể lập lại hay dựng lại chính xác quang cảnh đó, bởi vì chúng ta không được cho biết Chúa Giê-xu đang ở đâu, mặc dù chúng ta biết được rằng Phi-e-rơ đang ở nơi hành lang hay ngoài cổng. Nhưng dù bất cứ ông ở nơi đâu, ông cũng không xa khỏi tầm nhìn của Chúa Giê-xu, đủ gần để Ngài có thể nhìn thấy sự thay đổi và ánh mắt của ông. Và Chúa Giê-xu đã quay lại từ chính chỗ đứng của Ngài và tìm thấy Phi-e-rơ. Nghe cùng tiếng gà gáy, Ngài nhìn thẳng vào mắt của Phi-e-rơ khiến cho ông nhớ lại. Không nói nên lời. Chao ôi, một cái nhìn đã truyền đạt được tất cả, chỉ một cái nhìn thôi.
Cái nhìn đó như thế nào? Có phải là cái nhìn của sự ngạc nhiên không? Không. Chúa Giê-xu đã từng nói với ông là ông sẽ phản bội Ngài. Vậy đó có phải là cái nhìn của sự giận dữ và chối từ không? Cũng không bao giờ như thế. Tôi nghĩ nó có thể được mô tả như là một cái nhìn của sự đau lòng. “Phi-e-rơ, ngươi đã làm gì vậy?Hãy xét lại những gì ngươi đã làm với chính ngươi đi! Ngươi đã kể chính ngươi với những người này. Hỡi Phi-e-rơ, thật không sai chút nào như lời Ta đã bảo trước với ngươi. Hãy xem lại điều ngươi đã làm.” Và điều này được nói tiếp trong Mác 14, quý vị sẽ thấy trong 5 từ cuối của câu 72, “Người tưởng đến thì khóc.” Đó không phải là cái nhìn của sự phẫn nộ, cũng không là cái nhìn dửng dưng, cái nhìn ngạc nhiên, hay cái nhìn của câu nói “Ta đã bảo với ngươi như thế rồi mà,” nhưng đó là cái nhìn của sự đau lòng. “Hãy xem ngươi đã làm gì với chính ngươi.” Và Kinh Thánh ghi tiếp: “Người bắt đầu khóc.” Khi ông nhớ lại những lời bảo trước của Chúa Giê-xu thì “ông bắt đầu khóc.”
Không có bất cứ ai đang lắng chương trình phát thanh hôm nay, không một ai cả, có thể nhìn Phi-e-rơ với sự lên án, không ai cả – kể cả tôi. Dĩ nhiên là không một ai trong chúng ta đã có mặt tại quang cảnh lúc bấy giờ, bởi vì chúng ta không sống vào thời đó, nhưng tất cả chúng ta đều từng ở trong sự chối Chúa. Mỗi người trong chúng ta đều có như vậy.
Có lẽ trong việc làm quý vị cũng khám phá ra chính mình đang hòa lẫn giữa “những tên lính” như Phi-e-rơ vậy. Có lẽ trong trong sinh họat xã hội trước đây, quý vị đã có những ngày thỏa hiệp, và quý vị đã thấy chính mình từng ở trong sự chối Đấng mà chính quý vị đã tuyên bố yêu mến trong buổi thờ phượng ngày Chúa nhật trước đó. Có lẽ tại lớp học hay tại sân trường, để khỏi bị coi như một vài người sùng đạo mê tín, thì quý vị đã ngậm kín miệng mình trong khi có được một thời điểm thích hợp để chia sẻ niềm tin của mình trong Chúa Cứu Thế Giê-xu. Có lẽ quý vị đã phản bội chính Chúa của Quý vị trong sự im lặng hơn là trong lời nói thực tế như Phi-e-rơ đã làm, nhưng hầu hết chúng ta đều biết rằng làm như vậy cũng chính là chối Chúa rồi.
Thậm chí có lẽ tôi đi sâu hơn một chút để nói rằng có thể quý vị đã từng tham gia vào một vài loạt hành động đáng hổ thẹn nào đó trong những ngày gần đây nữa. Có thể quý vị đã tham gia một vài thói quen mà quý vị biết rằng nó thật sự rất sai trái. Và quý vị biết làm như vậy trước Đức Chúa Trời rằng đó là một điểm yếu trong lời chứng của mình. Tôi không biết điều đó là gì. Nhưng quý vị biết đó.Đó là điều nằm trong tâm trí quý vị ngay lúc này. Đức Chúa Trời nhắc nhở quý vị về nó trong thời điểm này. Không phải Đức Chúa Trời đưa những người này diễn hành trước chúng ta, để chúng ta nói rằng: “Tsk, tsk, tsk, tsk. Phi-e-rơ sống trong sự hổ thẹn giống như vậy đó.” Ngài đem những điều này đến trước sự quan tâm của chúng ta để chúng ta có thể nhìn lại chính mình. Phân đoạn Kinh Thánh này được viết ra để chúng ta có thể hy vọng, chúng ta có thể nhìn thấu được bên trong của mình và có thể nhận thấy được chính mình như chính con người thật của chúng ta. Cho nên tôi nài xin quý vị hãy dùng câu chuyện của Phi-e-rơ như một cơ hội cho điều này.
Các học giả Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng Mác đã lấy những thông tin từ một nguồn để viết Phúc Âm này của ông. Quý vị có biết nguồn đó là gì không? Đó chính là Phi-e-rơ. Có rất nhiều bằng chứng cho thấy chính Phi-e-rơ đã cho Mác trong thông tin của ông. Và Mác là một trước giả sớm nhất trong tất cả các trước giả Phúc Âm, có lẽ cũng là trước giả đầu tiên của bất kỳ sách Tân Ước nào. Phi-e-rơ đã cho Mác những thông tin này. Đó là lý do tại sao Mác đã nhìn thấu rõ được mọi việc trong sự chối Chúa của Phi-e-rơ, và tại sao đọan 14 lại thêu dệt các câu chuyện xoay quanh cuộc đời và sự chối Chúa của Phi-e-rơ. Bởi vì Phi-e-rơ đã nói: “Mác ơi, để tôi nói cho ông biết những gì thực sự đã xảy ra.” Và ông đã công khai, thẳng thắn thú tội của mình. Quả là một người đặc biệt phải không quý vị? Con người của Phi-e-rơ là như thế đấy!
Có một người sống tại Anh quốc cách đây nhiều năm tên là Brownlow North. Cuộc đời của ông đã bị lu mờ bởi phần lớn các nhà truyền giáo lừng lẫy đang nóng cháy đã truyền bá Phúc Âm đến tận Anh quốc trong ngày của thời kỳ Đại Phục Hưng. Ông Brownlow North chỉ là một ở trong số rất nhiều người như thế. Và ông ta đã không nổi tiếng như những nhân vật vĩ đại đó trên thế giới. Brownlow North là một nhà truyền giáo và là một người giảng về Phúc Âm chỉ ở mức trung bình. Chỉ có một ít trong số những người viết tiểu sử của thời đó là bao gồm tên tuổi của ông mà thôi. Có một quyển sách có tên của ông. Và nó cũng nói về một sự kiện trong cuộc đời của nhà truyền giáo tốt và tin kính này rơi vào vũng bùn tội lỗi, và trong một thời gian ông đã thỏa hiệp với tội lỗi và sống trong những tội lỗi bí mật với một cá nhân. Ông nghĩ rằng không ai khám ra ra đời sống này của ông đang khi ông thỏa hiệp với sự phản bội âm thầm này.
Sau một thời gian, ông Brownlow North đã nhận ra rằng cuộc đời của ông đang bắt đầu bị lay động, bị thay đổi, bị hư hỏng, và bị ô uế nhiều. Rồi ông đã từ bỏ con đường ương ngạnh này và chạy đến với Chúa Giê-xu một lần nữa và xưng tội của mình, nói rằng: “Lạy Chúa, cuộc đời con đã có một vết nhơ, một sự xấu hổ bày ra trước thiên đàng. Con xin xưng nó ra trước Ngài.” Rồi ông đã làm điều đúng với những ai mà ông từng xúc phạm đến. Và ông quay trở lại con đường truyền giáo Phúc Âm tiếp tục, và một lần nữa sự nổi tiếng lại đeo theo cuộc đời ông.
Nhưng ông ông Brownlow không biết là có một cá nhân đã biết ông đang ở trong tội lỗi,và chờ đợi Brownlow quay trở lại vòng truyền giáo này. Và ông thật sự đã làm điều đó. Một lần kia khi ông đang đứng trước một số đông khán giả để chuẩn bị giảng, thì có một bức thư nặc danh gửi đến cho ông qua người trật tự. Ông mở nó ra trước khi ông bước lên tòa giảng. Lá thư đó chứa những lời như thế này: “Tôi biết cuộc đời của ông. Tôi biết mọi thứ ông đã làm. Tôi đã nhận ra điều này từ khi sự việc mới bắt đầu. Và nếu tối nay ông cả gan dám đứng lên giảng, thì tôi sẽ đứng giữa khán giả và công bố tội lỗi đó của ông.”
Người đàn ông này phải có một quyết định. Ông Brownlow xếp lá thư lại và bỏ vào túi.Ông bước lên toà giảng. Sau một bài hát thờ phượng, ông đã bước lên và lấy ra từ trong túi một lá thư và ông đọc nó một cách công khai. Rồi ông nói: “Tối nay tôi muốn đứng trước quý vị và nói rằng lá thư này là sự thật. Đây đúng là sự thật. Tuy nhiên tôi muốn quý vị biết rằng Đức Chúa Trời đã thấy xứng đáng để tha thứ cho tôi. Tôi đã xưng tội lỗi của mình ra trước Ngài, và đã làm điều đúng với những ai mà tôi từng phạm tội với họ. Trước mặt Đức Chúa Trời, trong huyết của Chúa Cứu Thế Giê-xu, tôi đã được sạch, tôi đã được trắng trong, bởi vì tôi đã được tha thứ nhờ ân điển của Đức Chúa Trời.” Rồi sau đó Brownlow North đã giảng một sứ điệp đầy quyền năng trong cuộc đời, ông chưa bao giờ giảng được như vậy từ trước đến giờ. Và có hàng trăm người chạy đến tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu hôm đó.
Ông Brownlow Norht là người mà chúng ta có thể gọi là một Phi-e-rơ thời nay. Ông đã bày tỏ cuộc đời của ông ra như một quyển sách và ông nói: “Đây là sự thật.Nhưng tôi đến với quý vị dưới thập tự giá được hứa ban cho tôi một cách trọn vẹn, không hề thay đổi, bất diệt và sự tha thứ vô bờ. Tôi có tội nhưng tôi đã xưng tội của tôi ra trước mặt Đức Chúa Trời và bây giờ là trước mặt quý vị vì sự cần thiết.” Điều thú vị là người nào đó đã viết lá thư này đã không hề tiết lộ lai lịch của mình.
Hôm nay tôi không kết thúc chương trình với việc yêu cầu quý vị viết thư, hay email công khai bày tỏ sự chối Chúa của mình. Đó không phải là điều cần thiết. Hoàn cảnh không cho phép làm như thế. Nhưng tôi muốn hôm nay chúng ta tự đặt mình vào chỗ của ông Brownlow North, vào chỗ của sứ đồ Phi-e-rơ, ngay trong những trang của Phúc Âm Mác 14. Và tôi cũng muốn chúng ta thấy được chính mình đang ngồi bên cạnh đống lửa của sự thỏa hiệp, là nơi mà chúng ta thực sự công khai phản bội và chối Chúa của chúng ta, hoặc trong sự im lặng, trong lời nói hay trong bất cứ hình thức nào, thì chúng ta hãy xưng ra trước mặt Chúa trong lời cầu nguyện âm thầm.
Bài trắc nghiệm về những lời làm chứng của chúng ta không phải là cách chúng ta xử sự trước những người bạn của chúng ta trong thập tự giá của Chúa Cứu Thế như thế nào, nhưng là trước những kẻ thù. Đó là câu hỏi của tôi dành cho quý vị hôm nay. Nếu quý vị không xứng với thập tự giá của Chúa Giê-xu, và nếu như quý vị đã phản bội Ngài tối hôm đó, thì quý vị có thể đồng nhất mình với Phi-e-rơ.Hình dung ra quý vị đang ở đó. Quang cảnh đó thì chỉ một vài năm sau là thay đổi rồi. Hãy nhận diện những điều trong đời sống mà quý vị biết là đã đè nát lời chứng của mình, những điều mà quý vị đã không đối phó với một cách dứt khoát.Nếu quý vị thính giả nào đang lắng nghe tôi mà không có Chúa Cứu Thế Giê-xu như là Đấng Cứu Rỗi của mình, thì đây là quyết định mà Đức Chúa Trời chờ đợi quý vị thực hiện ngay.
Phi-e-rơ đã không tẩy xóa sự thất bại của ông – sự chối bỏ chính Thầy của mình.
Phi-e-rơ đã không giấu kín bí mật. Ông đã thổ lộ cuộc đời của ông như một quyển sách và ông nói: “Đây là sự thật, Mác, những điều này đã xảy ra, tuy nhiên nơi nào tội lỗi có thừa, thì ân điển lại càng nhiều hơn!” Ông còn nói thêm: “Tôi đến với quý vị trong huyết của Chúa Cứu Thế, đã đổ ra trên thập tự giá, là nơi lời hứa dành cho tôi đã hoàn tất, không thay đổi, bất diệt và tha thứ hoàn toàn. Tôi có tội, nhưng tôi đã xưng ra đầy đủ sự chối Chúa hèn nhát của tôi trước mặt Đức Chúa Trời và hiện nay, bởi vì quý vị cần phải biết, nên tôi cũng xưng ra trước mặt quý vị.” Chắc chắn là Phi-e-rơ cũng không bao giờ quên lời cảnh báo của Chúa Giê-xu phán với ông rằng “Satan muốn sàng sẩy ông như lúa mì, nhưng ân điển đã đến để giải phóng ông.”
Và vì thế chúng ta đến với câu hỏi cho mỗi một người trong chúng ta rằng: “Sự chối bỏ Chúa trong cuộc sống của tôi là gì?” Và điều đó dẫn đến những câu hỏi khác:“Tôi đã phản bội Chúa tôi như thế nào? Tôi đang sưởi ấm chính tôi tại một vài ngọn lửa của sự thỏa hiệp phải không? Tôi đang nấp trong cái bóng của sự im lặng phải không?”
Bài trắc nghiệm của lời chứng của chúng ta không phải là cách chúng ta hành động như thế nào trước những người bạn của thập tự giá, nhưng là những hành động và đạo đức của chúng ta trước mặt kẻ thù của thập tự giá.
Quý vị có còn nhờ bài thánh ca xưa này không? “Nhờ vào thập tự giá của Chúa Giê-xu nhìn vào thời điểm có thể thấy, / Cái chết cao cả của một người, / Người đã chịu hình tại đó vì tôi. / Và từ tận trong tấm lòng day dứt của tôi cùng với nước mắt đầm đìa, / hai điều phi thường mà tôi muốn nói ra là / sự phi thường của tình yêu cứu chuộc / và vì chính sự bất toàn của tôi.”
Ngày nay nếu Phi-e-rơ vẫn còn sống, chắc hẳn ông sẽ hát bài thánh ca hùng vĩ đó với những lời xưng tội rất thật và ý nghĩa, có phải không quý vị? Nhưng vì ông không còn nên chúng ta có thể quay lại bức thư mà ông đã viết, và nắm bắt được ý tưởng của cái nhìn viễn cảnh của ông, khi ông chạy theo niềm hy vọng và khích lệ dành cho khoảng thời gian lâu dài của sự thử nghiệm đứt đoạn. Phi-e-rơ đã hiểu ra. Sau những điều đó, ông đã ở tại đó để làm điều này.
Hãy lắng nghe những lời tâm sự của ông với một cảm xúc tuyệt vời, thỉnh thoảng quý vị lại nghe những lời xưng tội của ông. Phi-e-rơ viết trong IPhi 1:6-8 rằng,
“Anh em vui mừng về điều đó, dầu hiện nay anh em vì sự thử thách trăm bề buộc phải buồn bã ít lâu;
hầu cho sự thử thách đức tin anh em quí hơn vàng hay hư nát, dầu bị thử lửa, sanh ra ngợi khen, tôn trọng, vinh hiền cho anh em khi Đức Chúa Giê-xu Christ hiện ra.
Ngài là Đấng anh em không thấy, mà yêu mến; dầu bây giờ anh em không thấy Ngài,nhưng tin Ngài và vui mừng lắm một cách không xiết kể và vinh hiển.”
Kính mời quý vị cúi đầu nhắm mắt lắng lòng yên lặng trong giây lát.
Lạy Chúa là Đức Chúa Trời, cảm tạ Ngài vì sự khỏa lấp tội lỗi của chúng con tại thập tự giá và vì sự chịu hình thay cho sự yếu đuối và thất bại của chúng con.Cám ơn Ngài vì ân điển của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Vì sự thương xót của Ngài mà con đến trong sự nhận biết Ngài. Và vì Ngài đã tha thứ cho Phi-e-rơ về sự chối Chúa to lớn đó, không chỉ một lần mà những ba lần khác nhau, vì thế Ngài cũng sẽ tha thứ cho chúng con một lần, hai lần và nhiều lần nữa. Thật cảm ơn Cha vì đã nhắc chúng con biết nhìn lại chính mình khi trải qua cuộc sống của một con người yếu đuối như Phi-e-rơ, và vì cách làm cho chúng con bị tổn thương qua việc Chúa trình bày về Phi-e-rơ ra trước hết thảy chúng con để chúng con có thể đọc và thông qua cuộc đời của ông mà chúng con có được niềm hy vọng mới.
Chúng con cầu xin điều này khi kết quả của khoảng thời gian chúng con ở với nhau cùng với Chúa ngày hôm nay, chúng con sẽ trở nên dễ bị tổn thương hơn đối với những điều quan trọng của sự làm chứng trước một thế giới mà luôn bị theo dõi. Chúa tìm thấy chúng con trung tín, tìm thấy chúng con thánh khiết và mạnh mẽ trong bước đường chúng con theo Con Một của Ngài là chính Chúa Cứu Thế Giê-xu. Chúng con cầu nguyện trong danh Ngài. A-men.
Bài 3
Bài 3
Leave a Comment