BÀI 5: SÁU PHIÊN TÒA XÉT XỬ CHÚA GIÊ-XU

BÀI 5: SÁU PHIÊN TÒA XÉT XỬ CHÚA GIÊ-XU
sáu phiên tòa xét xử Chúa Giê-xu


Hầu hết chúng ta có thể đối phó với những khó khăn bất chợt do những sự khó khăn nhỏ trong cuộc đời đưa đến. Nhưng thật khó làm sao khi phải chịu đựng những cú đấm của sự bất công. Khi sự đối xử bất công che mù chúng ta. Khi dường như cả thế giới bắt đầu phớt lờ quay đi với những điều bất công đó. Mọi việc vững chắc như đá trở thành cát. Chẳng hạn, hệ thống pháp luật làm chúng ta thất vọng. Những người bạn tri âm tri kỷ bắt đầu nhìn chúng ta với cặp mắt nghi ngời. Rồi sau đó có những cơn tức giận nổi lên trong thâm tâm chúng ta làm chúng ta mất ngủ, việc nghĩ đến hành động trả thù và về sự chán nãn phiền muộn cướp đi sự vui vẻ hàng ngày của chúng ta, trong khi sự nghi ngờ bước vào và làm mờ tối linh hồn của chúng ta. Cuối cùng, chúng ta phải kêu cầu Đức Chúa Trời giống như tiên tri Ha-ba-cúc,
“Hỡi Đức Giê-hô-va! Tôi kêu vang mà Ngài không nghe cho đến chừng nào?”(Ha 1:2)
Mặc dù chúng ta nhớ đến những lời trong tiên tri Ê-sai 53,
“Người bị hiếp đáp, nhưng khi chịu sự khốn khổ chẳng hề mở miệng. Như chiên con bị dắt đến hàng làm thịt, như chiên câm ở trước mặt kẻ hớt lông, người chẳng từng mở miệng.
Bởi sự ức hiếp, và xử đoán, nên người đã bị cất lấy; . . .” (Es 53:7-8)
Do sự chịu đựng ngọn roi của sự bất công, Chúa Giê-xu nhìn sự đau đớn và bối rối của chúng ta với đôi mắt am hiểu thông cảm. Cho nên, khi chúng ta đem những điều bất công đó đến với Chúa Cứu Thế, chúng ta kinh nghiệm được sự đồng nhất với Ngài mà không bao giờ có được trước đó. Và thay vì để thì giờ tìm kiếm danh sách của những câu giải đáp, chúng ta chấm dứt sự tìm kiếm trong một sự ôm chầm của tình yêu.
Trước giả các sách Tin lành đã kể đến những chi tiết kỳ diệu về sáu lần xét xử Chúa Giê-xu và dẫn đến cái chết hết sức đau đớn của Ngài trên cây Thập tự – những chi tiết thương tâm mà thân xác Ngài chịu, về những nỗi ưu phiền, và sự xét sử bất công mà tiên tri Ê-sai đã nói trước về sự đau khổ của Chiên Con phải gánh chịu. Qua việc ngắm nhìn Chúa Giê-xu yên lặng gánh chịu những sự đùa cợt điên loạn liên tục này, chúng ta có thể tìm thấy được sức mạnh và sự an ủi để đứng vững trong đức tin của mình khi sự bất công xảy đến với chúng ta.
Hầu hết Cơ Đốc nhân chưa bao giờ học nghiêm túc về những điều xảy ra ngay trước khi Chúa Giê-xu chịu đóng đinh. Chúng ta chỉ chú trọng vào những sự kiện suốt đoạn đường từ vườn Ghết-sê-ma-nê đến đồi Gô-gô-tha, mà bỏ qua nhiều sự kiện ở khoảng giữa, nếu không nói là tất cả. Trong việc bỏ quãng cách đó, đã làm mất nhiều yếu tố lịch sử và thần học, chưa nói đến những sắc thái địa phương trong thời Chúa Giê-xu; kết quả là họ cũng làm mất những chi tiết quan trọng dẫn đến lời phán quyết cuối cùng dành cho Chúa Giê-xu.
Việc xét xử và đưa đến kết quả là Chúa Giê-xu Na-xa-rét bị đóng đinh trên thập tự giá cung cấp hình ảnh tiêu biểu của sự bất công và bất hợp pháp của việc kết án vội vã. Nó gây nên những ảnh hưởng xấu và sự lừa dối trong nhiều mặt. Những phiên xử này tượng trưng cho ngày tối tăm nhất trong lịch sử ngành luật pháp. Người bị kết tội là người duy nhất đã từng sống một cuộc đời hoàn toàn vô tội và trọn vẹn trên đất này. Tuy nhiên, Ngài đã bị kết án là có tội, có tội trước những tội mà Ngài không phạm. Thảm thương hơn nữa khi việc bị kết án của Ngài dẫn đến việc Ngài bị xử với loại hình phạt tử hình đau đớn nhất, nhục nhã nhất chưa từng có của con người. Cái chết dành cho tử tội theo luật pháp La-mã vào thế kỷ thứ nhất là bị đóng đinh vào thập tự giá.
Nhưng có một khía cạnh sáng chói trong tất cả những sự tối tăm này. Nhìn sự chết của Chúa Giê-xu từ một khía cạnh thần học, chúng ta thấy rằng đó là một sự hoàn tất trong sứ mạng của Ngài trên đất nầy. Mục tiêu chủ yếu của Ngài là rời bỏ thiên đàng vinh hiển đến trần gian, trở nên người như chúng ta để trả giá cho tội lỗi của chúng ta, và giải cứu chúng ta ra khỏi hình phạt của nó – Sự Chết. Nói cách khác, Chúa Giê-xu đến là để chết. Bởi vì sự chết thay của Ngài, như là sinh tế chuộc tội thay cho chúng ta, Chiên Con của Đức Chúa Trời có khả năng cất tội lỗi của thế gian đi, như sứ đồ Giăng viết trong Gi 1:19. Trên phương diện con người, những gì trông dường như một thảm kịch tàn khốc tại thời điểm ấy, phải được coi là một sự khải hoàn theo phương diện thuộc linh.
Nếu chúng ta làm một cuộc hành trình xuyên Việt Nam với nhau và khi đến một thành phố giống như Huế, một thành phố có nhiều công trình lớn, và đầy ắp những kỷ niệm, thì tôi không tin rằng chúng ta sẽ vội vã lướt qua vùng đặc biệt đó của đất nước, để đến một tỉnh khác. Tôi nghĩ quý vị sẽ đồng ý với tôi rằng đó là một trong những địa điểm chúng ta cần dừng lại và để thì giờ thưởng ngoạn.Chúng ta sẽ ở lại vài hôm để tham quan những công trình kiến trúc, thưởng thức danh lam thắng cảnh và những di tích lịch sử đã góp phần làm nổi danh tổ quốc vĩ đại của chúng ta.
Cũng tương tự như thế, khi chúng ta mở cuộc hành trình xuyên qua Thánh Kinh, sẽ có điều không hợp lý nếu khi chúng ta đến với con người của Chúa Cứu Thế Giê-xu và rồi vội vã đi nhanh đến với những chủ đề khác, mà không dừng lại để đọc những câu chuyện, và nghiên cứu đài tưởng niệm, đài tưởng niệm của thập tự giá. Cho nên tôi muốn làm điều đó trong bài học đặc biệt nầy. Mặc dù chúng ta đang nghiên cứu cách tổng quát về Thánh Kinh, nhưng dường như rất hợp lý cho chúng ta bỏ qua một thời giờ để nghiền ngẫm và phản ảnh trên sự đau khổ của Cứu Chúa yêu dấu chúng ta, sự bị bắt, sự kết án và sự chết của Ngài thay cho chúng ta.
Tôi muốn nhắm vào bốn, năm hay sáu lãnh vực của tư tưởng đang khi chúng ta cố gắng nối lại với nhau những mảnh của tấm thảm được đan dệt trong bốn sách Phúc Âm như nó có liên quan đến sự đau khổ, hy sinh của Cứu Chúa chúng ta. Đó là sự bảo đảm đức tin chúng ta. Đó là căn nguyên của lẽ thật. Đó là nền tảng của sự cứu rỗi. Tuy nhiên, tôi thường lấy làm ngạc nhiên là làm sao khi thấy rất ít Cơ Đốc nhân đã suy nghĩ xuyên suốt qua những sự kiện đã dẫn đến cái chết của Cứu Chúa chúng ta (AIFL-863, TS). Và với ý tưởng đó trong trí mà tôi đã chuẩn bị những ý kiến nầy cho quý vị. 
Trước hết, tôi muốn nói đến vần đề thời gian, toàn bộ vần đề việc nghiên cứu niên đại, bởi vì ngày giờ của người Do Thái trong thế kỷ thứ nhứt khác với cách tính thời gian của chúng ta ngày nay. Và sau đó tôi muốn tiến hành nghiên cứu niên các sự kiện lịch sử như tôi tìm thấy chúng bộc lộ ra trong lúc nghiên cứu các sách Tin Lành, chính các phiên xử, tiếp theo là một lời ngắn liên quan đến luật lệ La-mã vào thời kỳ đó, bởi vì tất cả những điều buộc chặt nhau trong sự ký thuật và lưu trữ trong Kinh Thánh, và cuối cùng, cái chết đó có ý nghĩa gì đối với cá nhân, đối với vấn đề thuộc linh của nhân loại.

I. VẤN ĐỀ THỜI GIAN

Trước hết, tôi xin trình bày về vần đề thời gian. Khi chúng ta tính thời gian của mình (theo xã hội La-mã, xã hội không phải của người Do Thái, theo xã hội Việt Nam), nó được tính từ nửa đêm hôm nay đến nửaa đêm hôm sau. Một giây sau nửa đêm là bắt đầu một ngày mới. Một ngày cũ kết thúc lúc 12 giờ khuya hôm sau. Vì vậy chúng ta tính giờ từ nửa đêm hôm nay đến nửa đêm hôm sau.
Theo lịch của người Do Thái, thời gian cho một ngày 24 giờ bắt đầu lúc 6 giờ chiều. Một ngày kết thúc khi tiếng đồng hồ gõ 6 giờ chiều, và ngày mới bắt đầu ngay sau giây thứ nhất lúc đó. Vì thế quý vị sẽ sử dụng 24 giờ đó suốt qua đêm và chấm dứt một ngày trong giờ ban ngày.
Thật thú vị, thời gian được tính theo một cách khác đang ban đêm, hơn là đang ban ngày. Thời gian ban đêm được tính theo các phiên gác. Thời gian được chia ra 12 giờ, từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng, làm 4 phiên gác, mỗi phiên gác là 3 tiếng.Phiên thứ nhất từ 6 giờ đến 9 giờ. Phiên thứ hai từ 9 giờ đến giữa khuya. Phiên thứ ba từ giữa khuya đến 3 giờ sáng, và phiên thứ tư của đêm sẽ là từ 3 giờ đến 6 giờ sáng. Tr khi ban ngày, thì thời gian được tính theo giờ, và không có phân đoạn thời gian. Mỗi ngày được chia thành những giờ chính xác.
Chẳng hạn, trong phúc âm Mat 27:45, quý vị sẽ thấy nói đến 2 thời điểm khác nhau trong ngày. Chúng ta không được cho biết 3 giờ, 7 giờ hoặc 4 giờ. Quý vị để ý thấy rằng khi Ma-thi-ơ viết về cái chết của Cứu Chúa chúng ta, ông nói rằng,
“Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ điều tối tăm mù mịt. “(27:45)
Bây giờ nếu quý vị tính thời gian bắt đầu lúc 6 giờ sáng, thì giờ thứ 6 sẽ là khi nào? Dĩ nhiên là giữa trưa. Giữa trưa, sự tối tăm phủ trên bầy trời, vì vậy nó báo hiệu giờ tang thương bao trùm cả trái đất. Sự tối tăm kéo dài trong suốt 3 tiếng, cho đến 3 giờ chiều, là thời điểm Chúa Giê-xu tắt hơi. Theo lịch Gregorian, ngày đó nhằm ngày 6 tháng 4 năm 32 sau Chúa, ngày mà Chúa Giê-xu bị bắt. Và lúc 3 giờ chiều (chúng ta nói là ngày hôm sau, trong khi người Do-thái nói là cùng ngày ấy), Ngài đã chết. Chúa Cứu Thế Giê-xu bị đóng đinh vào thập tự giá.
Nhưng điều mà tôi muốn quý vị thấy là cách tính thời gian trong thời đại của Kinh Thánh. Chúng ta hãy cùng suy nghĩ các sự kiện qua việc nghiên cứu niên đại.

II. NHỮNG SỰ KIỆN LỊCH SỬ

Trước hết, có buổi cầu nguyện tại vườn Ghết-sê-ma-nê, hay một thời kỳ cầu nguyện, hầu hết do một mình Chúa Giê-xu đã dành nhiều thời gian cho điều nầy. Quý vị nhớ là ngay cả các môn đồ của Ngài cũng đã ngủ. Nguyên do họ đã làm như thế là vì lúc đó là 1 giờ sáng.  Nó ở giữa canh thứ ba ban đêm. Từ nửa đêm đến 3 giờ sáng,Ngài bắt đầu cầu nguyện. Và nó là sau nửa đêm. Chúng ta không thể nói cách chính xác lúc đó mấy giờ. Hãy tạm gọi lúc đó lá 1 giờ sáng. Chúng ta chỉ biết nó thuộc về buổi sáng sớm. Chúng ta sẽ gọi nó là nửa đêm.
Sự phản bội của Giu-đa Ích-ca-ri-ốt và việc bắt Chúa xảy ra trong khoảng từ 1 giờ 15 đến 1 giờ 30, trong ngay cùng khu vườn mà Ngài đang cầu nguyện.
Và sau đó có một loạt các cuộc xét xử đầu tiên. Chúng ta sẽ để thêm ít thì giờ nghiên cứu nó trong chốc lát đây. Nhưng phiên xử đầu tiên diễn ra ngay tại nơi ở của nguyên Thầy tế lễ cả An-ne. Lúc đó khoảng 2 giờ sáng.
Có một cuộc xét xử không chính thức khác được tổ chức tại nhà con rễ của An-ne là Cai-phe lúc 3 giờ 30’ sáng, ngay sau khi phiên xử trước đó tại nhà An-ne (các phiên xử không bao giờ được diễn ra tại nhà riêng, nhưng họ đã làm điều đó). 
Tiếp theo sau đó có một cuộc xét xử chính thức trước Tòa Án Tối Cao của người Do Thái, việc nầy xảy ra theo Kinh Thánh ghi lại là, “Đến sáng ngày.” Lúc 6 giờ sáng (chúng ta cho là vào thời gian đó), Ngài đứng trước 70 người hợp thành Tòa Công luận, một loại Tòa Thượng thẩm của người Do Thái.
Khoảng 6 giờ 30 phút, Ngài bị giải đến Phi-lát và chịu sự chất vấn đầu tiên, ông ta là một quan chức La-mã. Tôi sẽ giải thích tính chất và một số vai trò của ông ta sau. Kinh Thánh ghi rằng: “Đến sáng ngày” và trời còn sớm. Chúng ta nghĩ là khoảng 6 giờ 30, hay 7 giờ.
Khoảng chừng 7 giờ sáng có một sự hội kiến trước mặt Hê-rốt An-ti-pa – Hê-rốt là vị vua chư hầu vùng Ga-li-lê, một loại thống đốc Ga-li-lê. Và như chúng ta thấy trong Kinh Thánh, Phi-lát hy vọng ông sẽ là lối thoát của mình, bởi vì Phi-lát không muốn chịu trách nhiệm về cái chết của người vô tội. Ông ta có tính chất như thế. Tuy nhiên Hê-rốt đã không hợp tác. Bởi vì Chúa Giê-xu đã không làm những phép lạ hay bất kỳ dấu kỳ nào theo lời yêu cầu của Hê-rốt, nên ông ta giao Chúa Giê-xu trở lại cho Phi-lát lần thứ hai. Ngài bị xét xử liên tục 6 lần trong khoảng thời gian rất ngắn. Và sự hình phạt diễn ra sau đó vào khoảng 8 giờ sáng.
Lúc 9 giờ Chúa Giê-xu đã đi trên ‘Con Đường Thập Tự,’ từ địa điểm xử án đến đồi Gô-gô-tha. Khoảng 9 giờ sáng, “giờ thứ ba,” theo Kinh Thánh chép, và tất cả các sách Tin Lành nhất trí điều đó, đôi bàn tay và đôi bàn chân của Ngài bị đóng đinh vào cây gỗ có hình chữ thập. Nó được dựng lên và chân cột chôn xuống trong một cái hố. Sự hành hình bằng cách đóng đinh vào cây hình chữ thập đã được sử dụng thường xuyên trong thời kỳ đó. Và không chỉ có huyết của Ngài đổ ra trên thập tự giá, nhưng trước Ngài đã có những người khác chết cách như vậy. Việc nầy không có gì mới, nó được sử dụng nhiều năm dưới luật pháp La-mã.
Vào lúc giữa trưa, sự tối tăm bao trùm trái đất, và cuối cùng lúc 3 giờ chiều, theo Kinh Thánh chép, Ngài trút hơi thở cuối cùng.
Tôi đã đánh dấu những điều đó như là một sự ghi nhận nhanh chóng. Chúng có nhiều ý nghĩa quan trọng trong nhiều lãnh vực cho đời sống tâm linh của chúng ta, vì đây là Con của Đức Chúa Trời, Người đã chết. Tuy nhiên, để tiết kiệm thời gian,chúng ta cần tiếp tục đi tới.
Điều tôi muốn là tạo nên trung tâm của sự chú ý của chúng ta lần này là các phiên xét xử Chúa Giê-xu. Tôi sẽ nói vài điều về sự xét xử bởi vì điều đó sẽ giúp chúng ta ghi nhớ vào trong tâm trí một số nhân tố tổng quát. Để rồi sau đó chúng ta sẽ xem qua từng sách trong bốn sách Tin Lành những điều hay, chọn lọc khác nhau ở đây, ở kia và đúc kết nên tấm thảm tuyệt với đầy ý nghĩa.
Trước hết, không phải chỉ có một lần xét xử, mà có đến 6 lần. Lần thứ nhứt, lần nầy cực kỳ quan trọng, ba phiên xử đầu tiên mang bản chất tôn giáo và cáo trạng là sự phạm thượng, là điều được chấp nhận trong một phiên tòa theo luật của người Do Thái. Nó không có nghĩa gì đối với Tòa án theo luật pháp La-mã cả. Người La-mã có nhiều thần. Đối với người theo thuyết đa thần, sự phạm thượng hoàn toàn không có nghĩa gì đối với người La-mã hết. Và vì thế cho nên khi Chúa Giê-xu đứng trước 3 lần xét xử của An-ne, Cai-phe, và Tòa Công luận, họ tiếp tục kết tội Ngài đã phạm thượng.
Tuy nhiên, khi lần xét xử thứ tư bắt đầu, họ giải Chúa đến Phi-lát, kế đến trước mặt Hê-rốt và sau Hê-rốt giao lại cho Phi-lát, bản cáo trạng theo luật dân sự. Và bản cáo trạng theo luật dân sự là tội âm mưu chống chính quyền. Và dĩ nhiên, đó là một tội trọng, với án tử hình. Và người ta sẽ thấy một cái chết ngay lập tức nếu tội phạm bị chứng minh là kẻ muốn lật đổ hoàng đế Sê-sa. Chúa Giê-xu bị xem như là một tên nổi loạn, và bị giao cho Phi-lát như là người phạm tội đó.
Tôi xin nói rằng tất cả 6 lần xét xử đó đều là không hợp pháp. Trong lịch sử luật pháp, có lẽ không có sự hổ thẹn nào được ghi nhận như trong những lần xét xử Chúa Cứu Thế Giê-xu. Việc xử án không bao giờ được thực hiện ban đêm, nhưng hai phiên đầu đã xử Ngài ban đêm. Người bị xử được phép có luật sư biện hộ. Không hề một luật sư đại diện nào trước tòa cả. Bị can bị tuyên án mà không hề có những nhân chứng. Thật ra, có những nhân chứng giả. Ngài bị bắt mà không bao giờ có bằng cớ, bị kết án mà không có chứng cớ phạm tội. Thú vị hơn nữa khi người có quyền hành tuyên bố: “Ta giao người nầy cho các ngươi và các ngươi xử thế nào tùy thích,” lại cũng chính là người bảo rằng: “Ta không thấy người này có tội gì cả.” Tôi nghĩ trong tất cả những người xét xử Chúa Giê-xu, chỉ có một người có thể được xem là có nửa lổ tai công chính, đó là Phi-lát, khi ông ta nói lúc cuối phiên tòa rằng: “Ta không thấy người nầy có tội lỗi chi hết.” 
Quý vị sẽ thấy điều lý thú như tôi đã thấy: “Người Do Thái theo luật pháp Môi-se và quyển luật đó được thông giải cho họ trong kinh Talmud, đó là ‘Sách Luật’ trong thời kỳ đó. Người La-mã được hướng dẫn theo bộ luật La-mã về hình sự. Những tài liệu nầy được xem là những ranh giới không có những khu vực ‘màu xám.’ Chẳng hạn, Tòa án Do Thái không được ngồi để lắng nghe các nhân chứng làm chứng về một tử tội trong ban đêm. Trong nội dung của bộ luật, ghi là: ‘Các thành viên của Tòa án không được phép hấp tấp chú ý và vội vã lắng nghe những lời làm chứng chống lại lời buộc tội đang khi đêm tối.’”
Họ có biết điều đó không? Dĩ nhiên, là họ biết rất rõ. Một số nhân viên tòa án Do Thái là Giáo sư dạy luật. Và họ đã cố ý phá bỏ luật pháp.
“Một chi tiết khác về luật pháp có liên quan đến yếu tố thời gian. Các thành viên của tòa án Do Thái, sau khi nghe chứng cớ về tội tử hình, họ không được phép đưa ra lời tuyên án ngay. Họ được YÊU CẦU hoãn lại để về nhà hai ngày và hai đêm. Trong bộ luật pháp có ghi: ‘Họ Phải ăn thức ăn nhẹ, uống rượu nhẹ và ngủ đầy đủ, rồi sau đó mới trở lại nghe nhân chứng chống lại người bị Kết tội. Rồi sau đó, và chỉ sau đó, họ sẽ bỏ phiếu quyết định.’”
“Thêm một chi tiết nhỏ nữa – nhưng là một hành động bất hợp pháp. Luật pháp đòi hỏi Tòa Công luận bỏ phiếu TỪNG NGƯỜI MỘT MỖI LẦN, những thành viên trẻ nhất bỏ phiếu trước – hầu để không bị các thành niên niên trưởng ảnh hưởng. Trong phiên xử Chúa Giê-xu trước Tòa Công luận, tất cả điều biểu quyết nhanh chóng, với cảm xúc và cùng một lúc.” 
Tôi xin giải thích lý do tại sao có 2 giai đoạn của mỗi 3 lần xét xử. Người Do Thái được phép mang tội phạm ra trước tóa án của họ, nhưng không được phép cất đi mạng sống của phạm nhân. Yêu cầu đó là qui định của chính quyền La-mã. Điều nầy giải thích tại sao các quan Tòa Công luận đến đứng ngã mũ cúi đầu trước mặt Phi-lát, hy vọng ông ta cũng sẽ tìm ra tội của Ngài và kết án Ngài. Vì vậy họ được yêu cầu, dưới luật của người La-mã, thay vì cất lấy mạng sống của tội phạm, thì họ phải đem những vụ kiện ra trước mặt các quan chức La-mã, mà trong trường hợp nầy là đem đến trước mặt Phi-lát, để ông ta có phán quyết cuối cùng. Sau đó, theo luật La-mã, họ tiến hành việc xử tử Ngài. Đó là lý do tại sao Ngài không bị ném đá, mà lại bị đóng đinh. Trong thế kỷ thứ nhứt, theo luật La-mã, hình phạt tử hình là đóng đinh vào thập tự giá; còn theo luật Do Thái thì là ném đá.
Bây giờ, chúng ta cần gặp những nhân vật chính, và tôi thiết nghĩ chúng ta đúc kết điều đó trong phần nghiên cứu về việc xử án. Chúng ta cùng xem phúc âm Giăng,đoạn 18. Quý vị nên chuẩn bị Thánh Kinh Tân ước sẵn bên cạnh. Chúng ta xem từng phân đoạn này đến phân đoạn khác. Bởi vì không phải chỉ có một sách Tin Lành ghi lại tất cả các sự kiện đó từ điểm này đến điểm khác.
Chúa Giê-xu bị bắt được ghi trong phúc âm Gi 18:1-11.
“Sau khi phán những điều ấy, Đức Chúa Jêsus đi với môn đồ mình sang bên kia khe Xết-rôn; tại đó có một cái vườn, Ngài bèn vào, môn đồ cũng vậy.
Vả,Giu-đa là kẻ phản Ngài, cũng biết chỗ nầy, vì Đức Chúa Jêsus thường cùng môn đồ nhóm họp tại đó.”
Đó là một thông tin nhỏ có chọn lọc. Sứ đồ Giăng, một trong 12 sứ đồ của Chúa,biết rõ điều đó. Đó là một trong những nơi thường lui tới của họ, một trong những địa điểm trú ẩn tốt và yên tĩnh. Có thể họ ngủ tại đó. CON NGƯỜI KHÔNG CÓ CHỖ GỐI ĐẦU. Có lẽ Ngài đã trãi qua nhiều đêm ở đó với môn đệ của mình dưới bầu trời đầy sao.
Nhưng đêm nay là đêm khác thường. Vào khoảng 1 giờ sáng.
“Vậy,Giu-đa lãnh một cơ binh cùng những kẻ bởi các thầy tế lễ cả và người Pha-ri-si sai đến, cầm đèn đuốc khí giới vào nơi đó.
Đức Chúa Jêsus biết mọi điều sẽ xảy đến cho mình, bèn bước tới mà hỏi rằng: Các ngươi tìm ai?” (Gi 18:3-4)
Quý vị thấy đấy, họ đến sẵn sàng cho một cuộc chiến đấu. Chắc chắn họ nghĩ Ngài trốn thoát, hoặc tìm cách trốn thoát, và họ lấy làm sửng sốt. Thật vậy, Giăng kể cho chúng ta biết, khi Ngài phán với họ: “Chính Ta là Giê-xu” trong câu 5.Xin lỗi, tôi đã bỏ qua điều đó.
“Chúng trả lời rằng: Tìm Jêsus người Na-xa-rét. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Chính ta đây! Giu-đa là kẻ phản Ngài cũng đứng đó với họ.
Vừa khi Đức Chúa Jêsus phán: Chính ta đây, chúng bèn thối lui và té xuống đất.
Ngài lại hỏi một lần nữa: Các ngươi tìm ai? Chúng trả lời rằng: Tìm Jêsus người Na-xa-rét.
Đức Chúa Jêsus lại phán: Ta đã nói với các ngươi rằng chính ta đây; vậy nếu các ngươi tìm bắt ta, thì hãy để cho những kẻ nầy đi(Ngài ám chỉ 11 môn đồ của mình)..
“Hãy để cho những người đó đi. Họ không có chi với Ta trong việc nầy. Ta sẽ chịu trách nhiệm tất cả. Đó là danh Ta.”
Bây giờ, bắt đầu câu 12, chúng ta có lần xử thứ nhứt trong 6 lần xét xử. Xin quý vị cùng tập trung chú ý. Câu 12,
“Bấy giờ, cả cơ binh, người quản cơ và những kẻ sai của dân Giu-đa bắt Đức Chúa Jêsus trói lại.
Trước hết chúng giải Ngài đến An-ne; vì người nầy là ông gia Cai-phe làm thầy cả thượng phẩm đương niên.’
Tại sao họ lại đem Ngài đến với An-ne nếu như ông ta đã phục vụ từ năm thứ 6 đến năm thứ 15 sau Công Nguyên, và đã rời khỏi chức vụ hơn 15 năm rồi? Ông là Thầy tế lễ cả danh dự. Ông ta được dân chúng xem là người có quyền quyết định sau cùng của dân Do Thái. Người kế vị ông ta là Cai-phe, con rể của ông. Và vì thế tôi đoán rằng việc giải phạm nhân đến An-ne trước là phương thức ngoại giao.Tôi nghĩ là ông ta đang đợi họ, và tôi nghi rằng điều đó đã được sắp xếp trước,và ông ta không ngạc nhiên khi họ đến. Chúng ta đọc câu chuyện về phiên tòa được tổ chức bất hợp pháp vào ban đêm, tại nhà riêng, không phải là nơi thi hành luật pháp. Và rồi chúng ta đọc thấy cách nào mà Ngài bị đối xử. Gi 18:14,
‘Vả,Cai-phe là người đã bàn với dân Giu-đa rằng: Thà một người chết vì dân thì ích hơn.’
Chúng ta xem tiếp câu 19.
“Vậy,thầy cả thượng phẩm gạn hỏi Đức Chúa Jêsus về môn đồ Ngài và đạo giáo Ngài.
Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta từng nói rõ ràng cùng thiên hạ; ta thường dạy dỗ trong nhà hội và đền thờ, là nơi hết thảy dân Giu-đa nhóm lại, chớ ta chẳng từng nói kín giấu điều gì.
Cớ sao ngươi gạn hỏi ta? . . .”
Điều này giống như nói rằng: “Những lời của Ta đang vang dội trong tai của công chúng. Ta không hề làm điều gì bí mật cả.”
“.. . Hãy hỏi những kẻ đã nghe ta nói điều chi với họ; những kẻ đó biết điều ta đã nói.
Ngài đương phán như vậy, có một người trong những kẻ sai có mặt tại đó, cho Ngài một vả, mà rằng: Ngươi dám đối đáp cùng thầy cả thượng phẩm dường ấy sao?”
Đây chỉ là sự bắt đầu của một đêm kinh hoàng và bạo lực. Nếu quý vị là người đã từng có việc kiện tụng tại tòa án, chắc quý vị biết những điều như vậy, thời đó, cũng như bây giờ, là hoàn toàn bất hợp pháp. Không hề có cảnh bạo lực trong phòng xử án. Tuy vậy, điều đó đã xảy ra qua suốt những lần xét xử nầy. 
Và hắn đã tấn công Ngài như thể Ngài đã nói hổn xược với An-ne. 
Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ví thử ta nói quấy, hãy chỉ chỗ quấy cho ta xem; nhược bằng ta nói phải, làm sao ngươi đánh ta? (AIFL-864, TS).
Đây là câu hỏi đầu tiên trong hàng loạt câu hỏi không bao giờ được trả lời. Ngài tiếp tục yên lặng trong khi bị xét xử. Tôi nghĩ rằng điều đó khá thú vị, vì Ngài không nói nhiều trong khi xét xử như họ. 
Cuộc xét xử chuyển đến An-ne. An-ne phớt lờ không hề trả lời câu hỏi. Và An-ne “Chuyển Ngài xang thầy cả thượng phẩm Cai phe” Đó là lần xét xử thứ hai.
Mời quý vị mở ra trong Phúc Âm Mat 26:57. Có một chi tiết nhỏ làm sáng tỏ việc giao lại trong phần xử thứ hai. 
“Những kẻ đã bắt Đức Chúa Giê-xu đem Ngài đến nhà thầy cả thượng phẩm Cai-phe, tại đó có các thầy thông giáo và các trưởng lão đang thờ lại.”
Thật lý thú phải không quý vị? Tất cả bọn họ thức suốt đêm. Lúc bấy giờ là khoảng 3:30 sáng, nhưng tất cả tập họp để chờ đợi. Tất cả điều đó là một âm mưu.
Cai-phe là con rễ của An-ne mà chúng ta đã nhắc đến phần trước. Ông ta là một tên bù nhìn của chính quyền La-mã. Ông ta là thầy tế lễ thượng phẩm và là một thành viên của Tòa Công luận. Chắc chắn ông ta là nhân vật đứng đầu Tòa Thượng thẩm.Cho nên lời của ông ta nói ra được coi là luật. Hãy xem cách giải quyết điều này. Từ câu 59.
“Bấy giờ các thầy tế lễ cả và cả tòa công luận kiếm chứng dối về Ngài, cho được giết Ngài.
Dầu có nhiều người làm chứng dối có mặt tại đó, song tìm không được chứng nào cả.Sau hết, có hai người đến,
nói như vầy: Người nầy đã nói Ta có thể phá đền thờ của Đức Chúa Trời, rồi dựng lại trong ba ngày.
Thầy cả thượng phẩm bèn đứng dậy mà nói với Ngài rằng: Những người nầy làm chứng mà kiện ngươi, ngươi không thưa lại gì sao?
Nhưng Đức Chúa Jêsus cứ làm thinh. Thầy cả thượng phẩm lại nói với Ngài rằng: Ta khiến ngươi chỉ Đức Chúa Trời hằng sống mà thề, hãy nói cho chúng ta, ngươi có phải là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời chăng?
Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời; vả lại, ta nói cùng các ngươi, về sau các ngươi sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự trên mây từ trời mà xuống.
Thầy cả thượng phẩm bèn xé áo mình mà nói rằng: Nó đã nói phạm thượng; . . .”
Hãy khoan đã. Chúng ta hãy đọc trở lại những gì mà Ngài đã nói,
“.. . Nó đã nói phạm thượng; chúng ta còn cần gì người làm chứng nữa sao? . . .”
Một phần của vấn đề là họ khó tìm được nhân chứng, vì vậy họ quyết định kết thúc sớm việc xét xử. 
“.. . các ngươi sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự trên mây từ trời mà xuống.
. .. Các ngươi vừa nghe lời phạm thượng đó, thì nghĩ làm sao?
Chúng trả lời rằng: Nó đáng chết!
Đó cũng là một phản ứng lý thú. Chỉ cần sau khi nghe thấy một ít thông tin là họ sẵn sàng giết Chúa. Có một sự không tôn trọng rành ràng của luật pháp. Chúng nhất quyết tìm ra và sử dụng nhân chứng giả để chống lại Chúa Giê-xu. Họ đã kết tội Ngài mà không tìm ra bất kỳ lời chứng thật nào. Tuy thế, họ đem Ngài đến Tòa án Tối cao. Mat 27:1.
“Đến sáng mai, các thầy tế lễ cả và các trưởng lão trong dân hội nghị nghịch cùng Đức Chúa Jêsus để giết Ngài (không phải để nghe lời chứng của Ngài, nhưng họ gặp để xử tử Ngài); 
Khi đã trói Ngài rồi, họ đem nộp cho Phi-lát, . . .”
Bây giờ chúng ta sang Phúc Âm Mac 15:1, và sau đó chúng ta sẽ dừng lại ở Phúc âm Lu-ca 22, chỉ xem lướt qua Mc 15:1.
“Vừa lúc ban mai, các thầy tế lễ cả bàn luận với các trưởng lão, các thầy thông giáo cùng cả tòa công luận; khi đã trói Đức Chúa Jêsus rồi, thì giải nộp cho Phi-lát.”
Ma-thi-ơ cũng như Mác không nói gì về sự xét xử. Có lẽ Phúc âm Lu-ca sẽ giúp chúng ta nhiều nhất – Lu 22:66. Câu nầy cho chúng ta thấy rõ nhất về lần xử đặc biệt thứ ba nầy.
“Đến sáng ngày, các trưởng lão trong dân, các thầy tế lễ cả, và các thầy thông giáo nhóm lại, rồi sai đem Đức Chúa Jêsus đến nơi tòa công luận.
Họ hỏi Ngài rằng: Nếu ngươi phải là Đấng Christ (có nghĩa là Đấng chịu xức dầu, là Messiah), hãy xưng ra cho chúng ta. Ngài đáp rằng: Nếu ta nói, thì các ngươi không tin;
nếu ta tra gạn các ngươi, thì các ngươi không trả lời.
Nhưng từ nay về sau, Con người sẽ ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời.
ai nầy đều hỏi rằng: Vậy, ngươi là Con Đức Chúa Trời sao? Ngài đáp rằng: Chính các ngươi nói ta là Con Ngài.”
Nhân đây, xin nói thêm rằng tôi có nghe những lời phê bình Kinh Thánh trong nhiều năm qua bảo rằng Chúa Giê-xu chưa bao giờ nói Ngài là con của Đức Chúa Trời.Tôi muốn biết ý nghĩa trong câu 70 là gì, nếu không phải là nghĩa đó? Có thể những lời đó không nói ra từ miệng Ngài: “Ta là Con của Đức Chúa Trời.” Nhưng họ đã hỏi Ngài: “Ngươi có phải là Con của Đức Chúa Trời không?” Ngài trả lời:“Thật, chính Ta.” Chúa Giê-xu công bố lai lịch của Ngài.
“Họ bèn nói rằng: Chúng ta nào có cần chứng cớ nữa làm chi? Chính chúng ta đã nghe từ miệng nó nói ra rồi.”
Đó là tất cả những gì họ cần. Họ cho Ngài là một người phạm thượng. Nhưng điều đó hoàn toàn không có ý nghĩa gì cả trước tòa án La-mã. Cho nên họ thay đổi cáo trạng. Bây giờ quý vị sẽ không còn nghe về sự phạm thượng được nhắc lại lần nữa trong mục đích uốn cong quan điểm của Phi-lát, bởi vì điều đó không có trọng lượng. Những gì quý vị sẽ nghe, khi chúng ta gặp Phi-lát và xem cách nào họ điều khiển một cuộc xét xử, là một sự liên tục nói về âm mưu nổi dậy và chống chính quyền. Ngài đang cố lật đổ chính quyền La-mã. Và họ nhai đi nhai lại vấn đề đó mặc dù đó là lời dối trá. Chúa Giê-xu chưa từng một lần có ý làm điều đó.Mặc dù sự dạy dỗ của Ngài rất cấp tiến, Ngài là người đã từng phán,
“.. . Hãy trả lại cho Sê-sa điều gì của Sê-sa; và trả lại điều gì của Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Trời.”
Nhưng họ không nhớ đến lời dạy dỗ có ích đó khi họ đến trước tòa án nhân dân nầy.
Bây giờ, chúng ta đến Phúc Âm Lu 23:1-5
“Đoạn,cả hội đồng đứng dậy, điệu Ngài đến trước mặt Phi-lát”
Phi-lát là ai? Phi-lát là Thống đốc xứ Giu-đê. Ông cư trú trong địa phận của Sê-sa-rê.Ông ta đang bị khiển trách vì một vài cáo buộc có tính hung ác lên chính quyền La-mã. Trong thời gian đó ông bị điều tra bởi nghị viện La-mã, cũng chính là cơ quan đã bổ nhiệm ông vào chức vụ hiện thời. Thường thì ông ta sống ở tại Sê-sa-rê. Như thế thì tại sao ông ta có mặt ở Giê-ru-sa-lem? Bởi vì lúc đó là thời gian lễ hội. Và ông ta đến là việc bình thường, đặc biệt là dịp Lễ Vượt Qua, bởi lúc đó dân chúng quá đông. Sự có mặt của ông cùng quân lính và dân chúng ở các vùng lân cận theo ông đến đó để duy trì luật pháp và bảo vệ trật tự trên các đường phố tại Giê-ru-sa-lem. Ông ta nổi tiếng là người tàn bạo, độc ác. Trong thâm tâm ông luôn theo chủ nghĩa bài Do thái. Về sau nầy tâm thần ông ta có những hiện tượng suy yếu. Cuối cùng ông bị trục xuất đến Gaul và đã tự tử chết ở đó.
Bây giờ, chúng ta trở lại nghiên cứu tiếp tục.
“Họ bèn khởi cáo Ngài rằng: Chúng tôi đã thấy người nầy xui dân ta làm loạn, cấm nộp thuế cho Sê-sa, và xưng là Đấng Christ, là Vua.”
Ồ!Ngài ng là một vị Vua. Đó là từ gây sự chú ý. Đó là từ “V” trong trí nhớ của dân La-mã – một vị Vua. “Chỉ có Sê-sa là Vua.” “Hắn tự xưng là Vua.”
“Phi-lát gạn Ngài rằng: Chính ngươi là Vua dân Giu-đa phải không? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời.
Phi-lát bèn nói với các thầy tế lễ cả và dân chúng rằng: Ta không thấy người nầy có tội gì.”
Tôi tin chắc rằng Phi-lát đã nhìn thấy Ngài như một vị Vua tự bổ nhiệm khác. Quý vị biết, họ đến rồi đi. Ông Edersheim cho chúng biết vào thời kỳ đó có đến 30 người tự xưng là Đấng Messiah. Ngay cả trong thời của Chúa Giê-xu nữa! “Hắn cũng là một người khác xưng như thế nữa đây.” Nên Phi-lát bảo họ: “Hãy dẫn hắn đi. Chính các ngươi tự giải quyết lấy. Ta không thấy người này có lỗi gì cả.Hắn ta sẽ không lật đổ chính phủ đâu”
Bây giờ hãy chú ý cách họ thuyết phục.
“Nhưng họ cố nài rằng: Người nầy xui giục dân sự, truyền giáo khắp đất Giu-đê, bắt đầu từ xứ Ga-li-lê rồi đến đây.”
Chúng ta sẽ trở lại trong giây lát. Nhưng tôi muốn quý vị xem lần xử thứ tư được chép trong Phúc Âm Gi 18:28-38. Có 10 câu hoặc 11 câu được chọn lọc, bởi vì đây là lần đầu trong hai lần xét xử trước mặt Phi-lát. Tôi muốn quý vị thấy sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai nhân vật, Chúa Giê-xu và Phi-lát. Chúng ta bắt đầu từ câu 28
“Kế đó, chúng điệu Đức Chúa Jêsus từ nhà Cai-phe đến trường án; bấy giờ đương sớm mai. Nhưng chính mình chúng không vào nơi trường án, cho khỏi bị ô uế, và cho được ăn lễ Vượt Qua.”
Họ phải cẩn thận lắm để giữ được sự tinhsạch trong chỗ này. Câu 29,
“Vậy,Phi-lát bước ra, đi đến cùng chúng mà hỏi rằng: Các ngươi kiện người nầy về khoản gì?”
Cho nên đây là cùng phên xử chúng ta đã xem qua ở trong Phúc âm Lu-ca 23, nhưng ở đây có nhiều chi tiết hơn.
“Thưa rằng: Ví chẳng phải là tay gian ác, chúng tôi không nộp cho quan.”
Điều đó không trả lời nào cho câu hỏi, nhưng ít nhất nó trút đi bớt sự giận dữ của họ.
“Phi-lát bèn truyền cho chúng rằng: Các ngươi hãy tự bắt lấy người, và xử theo luật mình. Người Giu-đa thưa rằng: Chúng tôi chẳng có phép giết ai cả.
Ấy là cho được ứng nghiệm lời Đức Chúa Jêsus đã phán, để chỉ về mình phải chết cách nào.
Phi-lát bèn vào trường án, truyền đem Đức Chúa Jêsus đến, . . .”
“Hãy đến đây. Chúng ta nên tách khỏi đám đông. Ngươi và ta hãy nói chuyện đi.” Vì vậy ông ta rời khỏi đám đông và đi vào trường án, và ở đó ông cho gọi Chúa Giê-xu đến và nói chuyện với Ngài, 
“.. . Chính ngươi là Vua dân Giu-đa phải chăng?
Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ngươi nói điều đó tự ý mình, hay là có người đã nói điều đó với ngươi về ta?
Phi-lát trả lời rằng: Nào có phải ta là người Giu-đa đâu? Dân ngươi cùng mấy thầy tế lễ cả đã nộp ngươi cho ta; vậy ngươi đã làm điều gì?
Đức Chúa Jêsus đáp lại rằng: Nước của ta chẳng phải thuộc về thế gian nầy. Ví bằng nước ta thuộc về thế gian nầy, thì tôi tớ của ta sẽ đánh trận, . . .”
Điều đó thật sâu sắc, có phải không quý vị? “Nếu ta đang lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa, ngươi nghĩ là môn đồ của Ta sẽ không thành lập những đạo binh và làm cho đường phố tràn ngập lòng căm thù sao?”
“.. . tôi tớ của ta sẽ đánh trận, đặng ta khỏi phải nộp cho dân Giu-đa; nhưng hiện nay nước ta chẳng thuộc về hạ giới.
Phi-lát bèn nói rằng: Thế thì ngươi là vua sao? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời,ta là vua. Nầy, vì sao ta đã sanh và vì sao ta đã giáng thế: ấy là để làm chứng cho lẽ thật. Hễ ai thuộc về lẽ thật thì nghe lấy tiếng ta.
Phi-lát hỏi rằng: Lẽ thật là cái gì? . . .”
Đây là một người có quyền lực, có một địa vị trí quan trọng, người đứng đầu xứ Giu-đê, người hỏi người xa lạ mà ông ta vừa gặp rằng: “Lẽ thật là gì? Lẽ thật là gì?”
Chúng ta trở lại Lu-ca 23. Thật sự thì Phi-lát đến trước mặt đám họ và nói rằng: “Ta không thấy người nầy có tội chi hết.” Gi 18:38. “Ta thấy người vô tội. Ta đã kiểm tra người. Chúng tôi đã nói chuyện với nhau. Người này là một người vô tội.” Nhưng ông ta đang cụp đuôi. Như quý vị thấy đấy, ông ta đang bị điều tra.Đã có vài cuộc nổi loạn bị nhăn chặn trong các đường phố xứ Giu-đê rồi, nhất là trên các đường phố Giê-ru-sa-lem. Ông ta đang bị Nghị viện La-mã điều tra, cho nên ông ta ở trong thế tiến lui khó xử. Nếu ông tha cho Ngài, thì có thể có thêm cuộc nổi loạn, là điều ông hoàn toàn không muốn nhìn thấy xảy ra.
Về phương diện khác, ông là người có lương tâm khi nói: “Ngài không có tội cho hết.” Và như vậy, trong ông ta có chủ nghĩa bài Do Thái nên làm cho ông ta lúng túng. Ông giao cho họ tùy ý xử lý theo ý họ muốn. Cho nên ông ta tự hỏi không biết có thể tìm được lối thoát không?
Và đó là lý do tạo sao chúng ta vui mừng có được sự ký thuật của Bác sĩ Lu-ca. Ông là người nhắc đến thời gian ở giữa hai sự việc xảy ra vắn tắt nầy với Hê-rốt.Chúng ta xem Lu 23:6.
“Khi Phi-lát nghe điều đó, thì hỏi nếu người nầy thật là dân Ga-li-lê chăng.”
Có lễ tôi nên đọc cho quý vị câu 5 nữa,
“Nhưng họ cố nài rằng: Người nầy xui giục dân sự, truyền giáo khắp đất Giu-đê, bắt đầu từ xứ Ga-li-lê rồi đến đây.”
Ông ta phấn khởi khi nghe “Ga-li-lê.” “Aah.” Cho nên ông ta hỏi: “Người nầy có thật là dân Ga-li-lê chăng?” Quý vị thấy, Phi-lát là tổng trấn xứ Giu-đê. “Và nếu Ngài là người Ga-li-lê, có lẽ chúng ta giao cho người nào đến từ Ga-li-lê.”
“Biết Ngài thuộc quyền cai trị của vua Hê-rốt, bèn giải đến cho vua Hê-rốt, vua ấy ở tại thành Giê-ru-sa-lem trong mấy ngày đó.”
Thuận tiện quá! Tuyệt vời quá! “Người nầy giao cho Vua. Vua chịu trách nhiệm.”
Hãy xem cách phản ứng của Hê-rốt. Xin nói thêm, Hê-rốt là ai vậy? Hê-rốt là người nổi tiếng. Hê-rốt An-ti-pa xuất thân từ gia đình Hê-rốt “danh tiếng,” giống như một phần của gia đình Mafia vậy. Họ được nổi tiếng vì cách cai trị hết sức bất công, trái đạo lý. Tất cả anh em của ông ta điều bị giết bởi cha mình, việc này khiến An-ti-pa có lẽ có một chút gì đó hoảng loạn. Đây là một người Chúa Giê-xu gọi là “Con cáo” trong một nơi khác, khi Hê-rốt nhận định về Chúa Giê-xu. Đây là người đã chặt đầu Giăng Báp-tít. Đây là hạng người mà quý vị không muốn gần gũi.
Trong thời gian nầy ông ta đang viếng thăm Giê-ru-sa-lem. Do bởi ông cai trị toàn xứ Ga-li-lê từ năm thứ 4 trước Công Nguyên đến năm thứ 39 sau Công Nguyên, thì ông ta là người hợp lý để kết án Chúa Giê-xu, theo sự suy nghĩ của Phi-lát. Nhưng điều đó đã không diễn ra, bởi vì Hê-rốt không đang có hứng thú giết người. Quý vị sẽ chú ý thấy rằng, 
“Vua Hê-rốt thấy Đức Chúa Jêsus thì mừng lắm; vì lâu nay vua muốn gặp Ngài, nhơn đã nghe nói về chuyện Ngài, và mong xem Ngài làm phép lạ.”
“Ta muốn nhìn thấy con người ngộ nghỉnh ấy. Ta muốn nhìn thấy hắn làm trò. Ta thích loại người như thế đó. Họ làm cho ta vui.”
“Vậy,vua hỏi Ngài nhiều câu, song Ngài không trả lời gì hết.”
Tôi yêu thích điều đó. Chúa Giê-xu đứng yên lặng hoàn toàn. Không làm bất kỳ điều nào trước mặt Hê-rốt để làm trò vui cho ông ta,
“Vậy,vua hỏi Ngài nhiều câu, song Ngài không trả lời gì hết.
Các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo ở đó, cáo Ngài dữ lắm.
Bấy giờ vua Hê-rốt và quân lính hầu vua đều đãi Ngài cách khinh dể và nhạo báng Ngài; đoạn, họ mặc áo hoa hòe cho Ngài, rồi giao Ngài về cho Phi-lát.”
Đây là mọt điều thất bại. Và Phi-lát đang cố ăn hết thức ăn điểm tâm, nhìn lên và không thể tin được mắt mình: “Ồ, không.” Và bây giờ ông khoát áo choàng cho Ngài, quay trở lại quay trờ lại ngay trường án cho phiên xử thứ hai. Và họ đã đem Ngài trở lại cho Phi-lát.
Có thú vị không, khi xem câu 12 để thấy Lu-ca đã cho chúng ta một yếu tố nhỏ về hai nhân vật Hê-rốt và Phi-lát.
“Trước kia Phi-lát với vua Hê-rốt thù hiềm nhau, nhưng nội ngày ấy trở nên bạn hữu.”
Quý vị há không muốn truy nguyên câu chuyện ấy sao? Riêng tôi thì thấy điều này thật thu hút. Tôi muốn biết điều gì dẫn đến sự kiện đó. Tôi muốn biết tại sao họ là kẻ thù với nhau. Tôi muốn biết lý do tại sao xung quanh chuyện xử Chúa Giê-xu họ thay đổi tư tưởng chuyển từ thù ghét sang bạn hữu. Điều đó hấp dẫn lôi cuốn tôi. “Họ đem Ngài giao lại cho Phi-lát.”
Bây giờ chúng ta trở lại Phúc âm Ma-thi-ơ 27. Từ Lu-ca 23 trở lại Ma-thi-ơ 27. Đó là lý do mà người ta không nghiên cứu điều nầy, bởi vì phải đi từ sách nầy đến sách khác, rồi sách khác nữa, và quý vị thường sử dụng sự đồng quan giữa các sách Tin Lành để kết hợp với nhau, và đó cũng là cách chúng tôi đang làm cho quý vị ở đây. Mat 27:15. Chúng ta trở lại lần xét xử thứ 6. Cho đến giờ vẫn không có gì được chứng minh cả. Mọi việc đều bất hợp pháp. Nhưng Ngài vẫn tiếp tục bị xét xử cách kỳ lạ. Câu 15, “Phàm đến Lễ Vượt Qua, quan Thống đốc có lệ.”Đây là Lễ Vượt qua. Có một thỏa thuận đáng quan tâm của người Do Thái.
“Phàm đến ngày Lễ Vượt qua, quan Thống Đốc thường có lệ tha cho một tội nhân tùy ý dân muốn.”
Lúc bấy giờ Phi-lát nghĩ: “Ta sẽ đưa ra cho họ thấy tên tội phạm nguy hiểm nhất mà chúng ta đang giam giữ.” Ba-ra-ba, theo các sách Tin Lành khác ghi lại, hắn không chỉ là một tên nổi loạn, mà còn là một tên giết người. Hắn là một tội phạm nguy hiểm đã bị tuyên án và đang chờ thi hành án tử hình. Tôi tin chắc là Ba-ra-ba bị treo trên cây thập tự ở giữa. Hắn là người đáng bị treo ở đó. Họ cũng xử ba tên cướp ở đó. Và Phi-lát nghĩ: “Họ sẽ không bao giờ tha cho Ba-ra-ba.” Tôi muốn nói rằng đây người rất nguy hiểm.
“Đang lúc ấy, có một mtên tội phạm nổi tiếng tên là Ba-ra-ba.”
Ai cũng biết hắn là tên tù nhân khét tiếng.
“Khi chúng đã nhóm lại, thì Phi-lát nói rằng: Các ngươi muốn ta tha cho người nào?Ba-ra-ba . . .”
Ông đã không để cho họ trả lời, mà chỉ họ một sự chọn lựa, vì ông nghĩ rằng họ sẽ không bao giờ chọn người mà họ không thích.
“.. . Ba-ra-ba hay Chúa Giê-xu được gọi là Christ?
Vì ông biết rằng do lòng ghen tỵ mà họ đã nộp Ngài.”
Quý vị thấy đấy, Phi-lát là người có chủ trương bài Do thái, nhưng ông ta không ngốc ngếch. Ông ta biết rằng đó là một sự dựng đứng. Ông ta có thể nhìn thấy qua hành động của họ. Và vì không thể tìm ra bất kỳ điều gì để chống lại Chúa Giê-xu, ông biết vì lòng ghen tỵ đã đem Ngài đến đó.
“Quan tổng đốc đương ngồi trên tòa án (đây là câu chuyện bên lề thật lý thú), vợ người sai thưa cùng người rằng: Đừng làm gì đến người công bình đó; vì hôm nay tôi đã bởi cớ người mà đau đớn nhiều trong chiêm bao.”
Tôi tin rằng quý vị rất muốn biết bà vợ của Phi-lát chiêm bao thấy những gì phải không? Nhưng bà chỉ cho người đến nói nhỏ với Phi-lát đang khi ông ta ngồi trên ghế thẩm phán. Chúng ta không biết nội dung của giấc mơ ấy, nhưng nó đủ để bà vợ Phi-lát run sợ, và chính ông ta cũng phải bối rối.
Bằng cách này hay cách khác Bác sĩ Lu-ca biết điều này và sứ đồ Ma-thi-ơ cũng tìm thấy và đặt sự kiện đó vào trong sự ký thuật của mình. Điều đó không được ghi trong hết bốn sách Phúc Âm, nhưng Lu-ca cho biết một ít, và Ma-thi-ơ cũng cho biết một ít.
Nhưng hiện thời ông ta đang bị áp lực. Họ đang phát cáu.
“Song các thầy tế lễ và các trưởng lão ép chúng hãy xin tha Ba-ra-ba và giết Đức Chúa Giê-xu.”
Hãy xem ai đã làm điều đó! Chính những nhà lãnh đạo tôn giáo.“Các thầy tế lễ và các trưởng lão thúc ép ông ta.” Họ nói với đám đông: “Hãy xin tha cho Ba-ra-ba. Không ai tệ hơn Giê-xu cả.” “Tại sao vậy?” Bởi vì Ba-ra-ba không phải là mối đe dọa cho những người lãnh đạo tôn giáo. Hắn không hề làm cho người theo chủ nghĩa giáo luật bất cứ một sự rắc rối nào cả. Hắn không đi ra giảng trên đường phố. Hắn chỉ vừa giết người. “Nhưng so sánh với Giê-xu, người lật đổ việc nầy, làm rối rối loạn hết chỗ làm ăn của chúng ta,chúng ta cần phải giết Người.”
“Quan tổng đốc cất tiếng hỏi rằng: Trong hai người nầy, các ngươi muốn ta tha ai?Chúng thưa rằng: Ba-ra-ba.
Phi-lát nói rằng: Vậy, còn Jêsus gọi là Christ, thì ta sẽ xử thế nào? Chúng đều trả lời rằng: Đóng đinh nó trên cây thập tự!”
Cũng xin nói thêm điều này, quý vị có bao giờ tự đặt chính mình vào trong xà lim của Ba-ra-ba, người mà có lẽ đang bị giam trong pháo đài Autonio không? Nó cách xa vừa đủ đề nghe thấy tiếng đám đông la hét: “Ba-ra-ba! Ba-ra-ba.” Hắn nghe gọi tên của mình, và rồi hắn ta nghe tiếp: “Đóng đinh hắn! Đóng đinh hắn trên cây thập tự!” Tôi nghĩ Ba-ra-ba hoàn toàn đang chờ họ đến mở cửa ngục, và đưa hắn ta đi đến cây thập tự. Hắn đang chờ đợi giây phút cuối của cuộc đời. Nhưng rồi trái lại, nếu có ai hiểu được ý nghĩa của Chúa Giê-xu mang thập tự giá cho mình, thì người đó chắc chắn phải là Ba-ra-ba. Quý vị há không thích theo dõi câu chuyện về Ba-ra-ba sao? Há không hấp dẫn để thu hút theo dõi câu chuyện, dù chỉ là truyến thuyết, rằng nếu hắn ta quay lại tin Chúa Cứu Thế sao? Tự hỏi không biết hắn có ở giữa đám chúng để xem Ngài chịu đóng đinh thay chỗ cho hắn không? Thật thu hút, thật hấp dẫn phải không quý vị? 
Họ gào lên: “Đóng đinh hắn lên cây thập tự. Đóng đinh hắn lên cây thập tư” Và nhìn Phi-lát. Ông ta đang muốn biện hộ cho Ngài. “Người này đâu có làm điều gì ác? Các ngươi hãy cho ta bằng cớ.” “Và họ tiếp tục hò hét thêm lên.” Họ cũng không trả lời câu hỏi đó nữa, bởi vì không hề có câu trả lời. Câu trả lời là “Không có gì cả!” Và họ cứ lập đi lập lại: “Hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự! Hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự.” (AIFL-865, TS).
Phi-lát biết rằng ông ta đang sắp có cuộc nổi loạn ở trước mắt.
“Phi-lát thấy mình không thắng nổi chi hết, mà sự ồn ào càng thêm, thì lấy nước rửa tay trước mặt thiên hạ, mà nói rằng: Ta không có tội về huyết của người nầy; điều đó mặc kệ các ngươi.”
Phi-lát biết mình không thắng nổi đám đông, mà sự ồn ào càng thêm, thì lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và tuyên bố: “Ta không có tội về huyết của người nầy; điều đó mặc kệ các ngươi.” Có phải đó là cách mà một người La-mã cầm quyền hành động, đi ngược lại lương tâm của mình, biết rằng họ giải Ngài đến đây chỉ vì sự ganh tỵy thôi, không tìm thấy chứng cớ nào để buộc tội Ngài, và nói rằng “Điều đó mặc kệ các ngươi” không? Mat 27:25, 
Phi-lát thấy mình không thắng nổi chi hết, mà sự ồn ào càng thêm, thì lấy nước rửa tay trước mặt thiên hạ, mà nói rằng: Ta không có tội về huyết của người nầy; điều đó mặc kệ các ngươi.
Hết thảy dân chúng đều đáp rằng: Xin huyết người lại đổ trên chúng tôi và con cái chúng tôi!”
Và thật vậy, điều đó đã trải trong nhiều thế kỷ.
“Phi-lát bèn tha tên Ba-ra-ba cho chúng; và khiến đánh đòn Đức Chúa Jêsus, đoạn giao Ngài ra để đóng đinh trên cây thập tự.”
Việc đánh đòn là một hành động thật khủng khiếp. Phạm nhân cúi mình xuống trên một khúc gổ có 4 vòng sắt đặt lên khúc gổ đó. Một người có trách nhiệm đánh phạm nhân được gọi là một vệ sĩ, cầm một roi da có móc bằng xương thép cột ở đầu dây, khi đánh, cái móc làm tróc da thịt. Một số người chết trên khúc gổ đang khi bị đánh. Những cái móc trên roi da đó sẽ siết vào cổ, cũng như quất vào mông phạm nhân, da thịt từ thân thể văng ra. Thật kinh khiếp!
Phi-lát giao Ngài cho quân lính và chúng đùa cợt chế giễu Ngài. Ngài bị phô bày ra giữa bọn chúng, trần truồng, trong tình cảnh bị làm nhục, Ngài bị đánh b6an sống bán chết. Kế đến chúng bắt Ngài vác cây thập tự đến Gô-gô-tha và đóng đinh Ngài, để chết trên ấy.
Mác cho chúng ta biết rằng lúc đó “vào giờ thứ ba,” Mac 15:25, khi Ngài bị đóng đinh vào cây thập tự là vào 9 giờ sáng. Chúng ta đã xác định thời gian đó. Trời đất tối tăm lúc 12 giờ đúng, vào “giờ thứ sáu,” Mac 15:33. Ngài vẫn bị treo mình đến 3 giờ chiều. Và tại thời điểm đó, Ngài nói những lời cuối cùng, rồi trút hơi, Ngài đã chết.
Tôi xin nói một lời về sự cai trị của chính quyền La-mã đang chúng ta kết thúc. Tôi thấy việc nghiên cứu về triều đại Sê-sa chỉ hấp dẫn về phần niên đại, trong trường hợp nầy, niên đại là những kiện của Linh Thánh.
Chúa Giê-xu sinh ra trong thời kỳ trị vì của vua A-gút-tơ, vị vua đầu tiên trong các Hoàng đế vĩ đại, từ năm 30 T.C. cho đến năm 14 S.C.  Ông ta làm hoàng đến lúc Chúa Giê-xu được sinh ra.
Và sau đó sự nghiệp được kế vị bởi vua Ti-be-rơ. Theo Lu 3:1,Ti-be-rơ là người đang sống trong thời gian Chúa Giê-xu thi hành chức vụ và chịu chết. Vì vậy nó có thể được ghi vào lịch sử trong thời trị vị của Ti-be-rơ,từ năm 14 đến 37 S.C. Đó là thời kỳ mà Chúa Giê-xu chịu chết.
Tôi đoán rằng sử sách sẽ ghi rằng cái chết của Ngài xảy ra ngày 6 tháng Tư năm 32 S.C, đang khi Sê-sa Ti-be-rơ làm Hoàng đế La-mã. Phi-lát làm thống đốc xứ Giu-đê. Và Hê rốt làm vua chư hầu vùng Ga-li-lê. Dường như nó đến quá nhanh và quá lạnh lùng, nhưng nó ở trong lúc Chúa Giê-xu chịu chết.
Tất cả những việc xảy ra nói lên điều gì với chúng ta? Trong phần cuối của bối cảnh mà quý vị đã thấy, xin cho phép tôi nói rằng, chưa bao giờ điều nào đáng xấu hổ, bất hợp pháp, bất công trong lịch sử tòa án bằng sáu lần xét xử dẫn đến án tử hình bằng cách đóng đinh và cái chết của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Ngày nay chúng được xem là một vết nhơ được ghi lại trong Kinh Thánh, lời của Đức Chúa Trời.
Tuy nhiên, trong điều nầy có một ý nghĩa tương phản. Từ những hành động bất công đó, sự công bình của Đức Chúa Trời được đáp ứng thỏa mãn. Đang khi loài người đổ sự thạnh nộ của họ lên các phiên xử và cái chết của Ngài, thì cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời nghịch lại tội lỗi đã được hoàn hảo giải tỏa trên Chúa Cứu Thế Giê-xu tại thập tự giá. Quý vị có biết điều đó không? Tất cả sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời được trút lên Chúa Giê-xu ngay lúc đó, khi Ngài mang tất cả tội lỗi của chúng ta trong thân thể Ngài trên thập tự giá. Ngài chịu đau đớn và chết cho quý vị và tôi. Sự chết của Ngài đã tiền chuộc, trả cái giá mà tội lỗi đòi hỏi. Vì vậy, Đức Chúa Trời sẽ nhận chúng ta vào trong gia đình của Ngài,nếu chúng ta bằng lòng chấp nhận sự hy sinh của Ngài và tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu hầu chúng ta được cứu.
Gi 3:16
“Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nổi đã ban Con một của Ngài; hầu cho hễ ai tin Con ấy, không bị hư mất mà được sự sống đời đời.
Đức Chúa Trời sai Con Ngài đến chẳng phải để đoán xét thế gian đâu, nhưng hầu cho thế gian nhờ Con Ngài mà được sống.”
Thông tin thật kỳ diệu.
“Đức Chúa Trời bày tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, đang khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.”
ITi 2:5,
“Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, là người;
Vả,Đấng Christ cũng vì tội lỗi chịu chết một lần, là Đấng công bình thay cho kẻ không công bình, để dẫn chúng ta đến cùng Đức Chúa Trời; . . .”
Há không thích thú sao quý vị? Tôi muốn dùng từ “mỉa mai,” nhưng nó có nghĩa sâu hơn từ đó. Nó há không phải là điều thú vị là hàng loạt những sự kiện cay độc đều được Ba Ngôi Đức Chúa Trời hoạch định và được biết rõ của Đấng Tối Cao.Cuộc đời của Ngài trên đất quá ngắn ngủi, chỉ có 33 năm rưỡi trong lịch sử vụt qua quá nhanh của thời gian. Toàn bộ sự việc nầy được đưa lên đến điểm cao nhất trong khoảnh khắc của thời gian vào thế kỷ thứ nhứt, khi Đấng Christ giáng sinh, sống, thi hành chức vụ, chịu đau khổ, chịu chết, được sống lại và thăng thiên. Tuy nhiên, toàn bộ lịch sử hướng về hay quay trở lại với khoảnh khắc đó.
Thực ra, tất cả ý nghĩa của đời sống xoay quanh sự chết, sự chôn và sự sống lại của Con Đức Chúa Trời. Điều đó đem lại ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc đời của chúng ta.Hãy suy nghĩ đến điều đó. Ngài đã tự nguyện chịu khổ. Không một lần đánh trả lại. Ngài không một lần thật sự bảo vệ mình. Đứng trước đám đông nổi lọan, hay đứng trước những người có thẩm quyền và trước những ai nhạo báng, trêu chọc Ngài. Ngài đã đứng lên cách mạnh mẽ trong sự thanh liêm của mình và Ngài đã hy sinh mạng báu của Ngài cho nhân loại. Một lần nữa tôi và quý vị hết sức biết ơn Ngài, vì cớ Ngài đã yêu thương, hy sinh cứu chuộc chúng ta. Khi tôi nghiên cứu bài học nầy, tôi cảm thấy càng biết ơn Ngài hơn, vì Ngài đã được sinh ra cho chúng ta.
Kính mời quý vị cúi đầu nhắm mắt lắng lòng yên lặng trong giây lát.Chúng ta đã tìm hiểu qua các sự kiện về thời gian, từ khoảng 1 giờ sáng cho đến 3 giờ chiều trong ngày Chúa Giê-xu yêu dấu chúng ta chịu chết. Chúng ta cũng cảm nhận, nhìn thấy và được nghe trình bày lại cảnh tượng đó. Quý vị có chắc chắn là quý vị có đức tin để nhận sự chết của Ngài không? Hãy tin chắc như vậy.
Kính lạy Cha kính yêu của chúng con. Chúng con cảm ơn Ngài vì sự nhắc nhở. Nó đặt rất nhiều điều vào đúng viễn cảnh. Ngài đã đến trần gian, chịu sĩ nhục, chịu đau đớn kinh khiếp bị xét xử vô cớ nhiều lần, để trả giá cho tội lỗi của chúng con, và cứu chúng con khỏi hình phạt hư mất đời đời. Chúng con nhận biết Ngài chịu đủ điều chỉ vì Ngài yêu chúng con. Xin cho chúng con sống một cuộc sống biết ơn và có ích cho Ngài. 
Lạy Cha yêu dấu, chúng con cảm ơn Ngài vì sự yêu thương cả thể của Ngài đối với chúng con, chúng con cảm ơn Chúa Giê-xu Người đã yêu và hy sinh chính mình Ngài cho chúng con. Chúng con hiệp ý cầu nguyện trong danh Cứu Chúa Giê-xu. A-men.
BÀI 4                                                                                       BÀI 6

No comments

Powered by Blogger.