BÀI 14: LẠY CHA! CON GIAO LINH HỒN TRONG TAY CHA
BÀI 14: LẠY CHA! CON GIAO LINH HỒN TRONG TAY CHA


LẠY CHA! CON GIAO LINH HỒN TRONG TAY CHA
Các bậc cha mẹ Cơ-đốc thường dạy con mình những bài cầu nguyện mẫu để cầu nguyện trong những trường hợp đặc biệt. Thí dụ như bài cầu nguyện trước khi ăn, bao gồm những lời ngắn gọn cảm ơn Chúa về thức ăn. Hoặc bài cầu nguyện trước khi đi ngủ mà các tín hữu người Âu Úc Mỹ thường dạy cho con mình như sau: “Chúa ơi, bây giờ con nằm xuống ngủ, / Con cầu xin Chúa gìn giữ linh hồn con. / Nếu com qua đời trong giấc ngủ, / cầu xin Chúa tiếp lấy linh hồn con. A-men!”
Các cha mẹ Do-thái tin kính thường dạy con cái mình cầu nguyện khi chúng vừa biết nói. Họ dạy con cái lập lại những lời cầu nguyện nhiều lần trong ngày. Thường thì những bài cầu nguyện này được trích dẫn trực tiếp từ các Thi Thiên. Một trong những bài cầu nguyện như thế được cầu nguyện trước khi đi ngủ, trích từ Thi 31:5, “Tôi phó thác thần linh tôi vào tay Chúa.”. Một người Do-thái tin cậy Đức Chúa Trời đang khi nằm xuống, đằu đặt trên gối, miệng dâng lên lời cầu nguyện ấy, trao phó chính mình trong sự gìn giữ của Đức Chúa Trời đang khi người ấy ngủ.
Quý vị biết tôi đang nghĩ đến điều gì không? Tôi đang tự hỏi không biết bà Ma-ri có dạy cho Chúa Giê-xu lúc còn bé bài cầu nguyện đó không? Tôi nghĩ rằng có. Có lẽ Ngài đã nói lời cầu nguyện đó trong suốt thời thơ ấy, sang đến tuổi thiếu niên. Ngài có thể lập lại lời cầu nguyện ấy một cách dễ dàng trong tuổi người lớn. Vì vậy tự nhiên là những lời cầu nguyện ấy sẽ ở trên môi của Ngài trong giờ phút cuối cùng trên thập tự giá. Những lời thật thích hợp là dường nào. Đối với Chúa Giê-xu, thì sự kết thúc đã đến. Ngài đã hoàn tất sứ mạng do Đức Chúa Cha giao phó. Chén đau thương mà Ngài phải uống để hoàn tất công tác của Đấng Cứu Thế đã uống xong; án phạt của tội lỗi đã được trả đầy đủ; việc bị Đức Chúa Trời lìa bỏ đã qua. Trong linh hồn Ngài dâng lên một cảm xúc ấm áp, ngọt ngào. Ngài sẵn sàng trút linh hồn, và Ngài biết rõ rằng Đức Chúa Trời sẽ tiếp nhận.
Vì vậy, những lời cuối cùng của Ngài thật hết sức phù hợp – không phải chỉ vì công tác của Ngài đã hoàn tất, nhưng còn bởi vì sự chết cần phải được cho phép xảy đến nữa. Xin quý vị chớ bao giờ lầm lẫn điều này:Chúa Giê-xu không hề bị người ta giết chết, cũng như không phải Ngài chết vì cớ sự kiệt lực. Ngài đã chết bởi vì Ngài đã nhất quyết chọn lấy sự chết. Chính Ngài cũng đã phán trong Phúc Âm Gi 10:17-18 trước đó rằng,
“. . . Ấy vì ta phó sự sống mình để được lấy lại.
Chẳng có ai cất sự sống ta đi, nhưng tự ta phó cho; ta có quyền phó sự sống, và có quyền lấy lại; ta đã lãnh mạng lịnh nầy nơi Cha ta”.
Chính Chúa của sự sống đã tự nguyện phó sự sống mình. Trong khi làm như thế, Ngài phó thác linh hồn mình trong tay Đức Chúa Trời một cách yên tịnh, trầm tỉnh và tự nguyện. Trong khi thốt lên những lời quen thuộc trong bài cầu nguyện thân thương này của người Do-thái trích từ Thi Thiên, Chúa Giê-xu thở hơi cuối cùng và trút linh hồn mình. Sự thống khổ sẽ tan. Sự chết sẽ đến như một vị khách được mời.
Đáng để chúng ta chú ý cách Chúa Giê-xu đã trích dẫn từ Thi Thiên quen thuộc này. Ngài thêm vài điều ở phần đầu và bớt đi vài điều ở phần cuối câu. Tại phần đầu Ngài đã thêm chữ “Cha.” Chữ này không hề xuất hiện trong Thi Thiên của vua Đa-vít, và nó không thể nào có việc đó. Trong thời Cựu ước, cá nhân chưa được quyền gọi Đức Chúa Trời là “cha.” Trong khi Ngài được gọi là “Cha của đất nước” như một cách chung, thì sự gần gũi thân mật như thế giữa một cá nhân với Đức Chúa Trời là điều hoàn toàn xa lạ đối với người Hê-bơ-rơ xưa.
Bây giờ thì không còn như thế nữa. Mối quan hệ mới này, là điều Chúa Cứu Thế đem lại cho đời sống của những người tin, được tiêu biểu qua từ “Cha.” Qua việc thêm tiếp đầu ngữ cho lời phán cuối cùng của Ngài, Chúa Giê-xu đã ban cho câu này một sự sâu nhiệm mới, màu sắc mới. Sự thân mật qua lời nói này nổi bậc với sự kiện cách đó không lâu, Ngài đã kêu thét lớn tiếng với cảm xúc to lớn rằng: “Đức Chúa Trời tôi ơi! Đức Chúa Trời tôi ơi!” Bây giờ thì không còn như thế nữa. Tội lỗi đã được mang. Sự cơ đơn phân cách do bị Đức Chúa Trời thánh khiết từ bỏ đã chấm dứt vĩnh viễn. Đức Chúa Trời đã quay trở lại với Con yêu dấu của Ngài. Ví thế, chữ “Cha” bây giờ thật hết sức thích hợp. Mối quan hệ ấm áp, mềm mại mà Ngài từng luôn luôn vui hưởng bây giờ đã quay trở lại. Tội lỗi không còn ngăn chận lối đi của mối thông công mật thiết giữa Ngài và Đức Chúa Trời nữa.
Bây giờ, mời quý vị xem sự thay đổi khác mà Chúa Giê-xu đã thực hiện qua việc bỏ đi phần cuối của câu nói trong Thi 31:5 của vua Đa-vít. Chúng ta đọc thấy ghi,
Tôi phó thác thần linh tôi vào tay Chúa: Hỡi Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời chơn thật, Ngài đã chuộc tôi.
Nhưng khi quý vị xem lại câu nói của Chúa Giê-xu trên thập tự giá, khi Ngài nói lên lời cầu nguyện này, Ngài không nói luôn câu: “Hỡi Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời chơn thật, Ngài đã chuộc tôi.” Nguyên rất rõ ràng khi chúng ta nhớ ai đang trích dẫn Thi Thiên này. Chính Chúa Giê-xu, Chiên Con không tỳ vít, Đấng Thần-Nhân, Đấng vô tội, Đấng hi sinh chuộc tội thay cho nhân loại không cần được chuộc. Đấng Cứu chuộc không cần được cứu chuộc, cho nên thật xứng hợp khi Ngài bỏ đi câu cuối trong lời cầu nguyện của Ngài dâng lên cho Đức Chúa Cha.
Tôi nghĩ đây là chỗ rất thích hợp để chúng ta dừng lại giây lát và đặt câu hỏi: Quý vị có nhớ một cái chết đau đớn khác được ký thuật lại trong Kinh Thánh cũng đã dùng lời cầu nguyện này không? Quý vị hãy suy nghĩ và nhớ lại xem. Nếu quý vị không thể được, xin hãy mở ra trong sách Công vụ 7, để tìm câu trả lời ở đấy.Nó được tìm thấy trong sự ký thuật lại câu chuyện cảm động của người tử đạo đầu tiên trong Tân ước. Tên của ông là Ê-tiên, chấp sự Ê-tiên. Sau khi can đảm, mạnh mẽ tuyên xưng đức tin của mình, Ê-tiên chỉ tay tố cáo hướng về Tòa công luận (những con người mà ông gọi là ‘cứng cổ và có lòng và tai không chịu cắt bì’)và ông kết án họ với tội nhận Luật pháp nhưng lại không giữ Luật pháp. Họ đã điên tiết, nghiến răng, chạy đến lôi ông ra ngoài thành và bắt đầu ném đá ông.
Ngay trước khi tắt thở, chúng ta đọc thấy chấp sự Ê-tiên đã,
.. . cầu nguyện rằng: Lạy Đức Chúa Giê-xu, xin tiếp lấy linh hồn tôi. (Cong 7:59)
Cuộc chiến đấu cho đức tin mình của người tuận đạo đã kết thúc. Mặc dù những con người có lòng tàn ác, độc địa muốn kết thúc mạng sống của ông với việc ném đá và đầu hứng chịu những viên đá tàn nhẫn, thì tâm trí của ông vẫn sáng suốt và bình an.Trong vài giây sau, ông đã bất tỉnh và rồi tắt thở. Nhưng linh hồn của ông ngay lập tức ở trong bàn tay bảo đảm của Chúa mình.
Trớ trêu thay, người đứng bên đó, đứng nhìn người ta ném đá chấp sự Ê-tiên (Cong 7:58), là một “người trẻ tuổi tên Sau-lơ.” Không ai khác, chính là người sau này được biến đổi cách lạ lùng khi gặp Chúa, sau này được gọi là sứ đồ Phao-lô.Chúng ta không thể không tự hỏi không biết Phao-lô có hình ảnh của Ê-tiên trong trí không khi nhiều năm sau ông viết về việc chết như là “ra khỏi thân thể này để ở với Chúa”?
Cho nên chúng ta thấy chấp sự Ê-tiên, và Chúa Giê-xu,Đấng Messiah, là những người đã phó thác linh hồn mình trong tay của Đức Chúa Cha.
Không có bất cứ nhà văn nào, dù tài ba lỗi lạc đến đâu, có thể diễn tả cách thích ứng cho chúng ta, ngay cả trong những lời thâm thúy nhất, về Chúa Giê-xu trong những giờ phút cuối cùng trên đất. Và có lẽ điều này giải thích lý do tại sao các trước giả các sách Phúc Âm cực kỳ ngắn gọn khi họ đến với những thời điểm và giây phút cuối cùng trên thập tự giá.
Tôi nghĩ không có thể làm điều này tốt hơn ông Bernard of Clairvaux khi ông mô tả cho chúng ta trong lối văn thơ riêng của mình về sự thống khổ của Chúa Cứu Thế.Ông viết trong một bài Thánh ca quen thuộc tựa đề “Thánh Thủ Chúa” như sau:“Đầu Chúa tôi sao trông gục nghiêng? / Vì đảng ác nhân mỉa mai, / Ôi Thánh thủ giờ đã bị thương, / Với sự đau buồn và sĩ nhục đã trì kéo xuống, / Với sự kinh miệt phủ vây. / Với gay nhọn, chính là mão miện duy nhất của Ngài;” đang khi ông mô tả hình ảnh Chúa Giê-xu bị đóng đinh. Vị tu sĩ xưa này đã làm công việc tuyệt vời nhất khi viết rằng: “Giê-xu, nguồn an ủi cho mọi lòng, / Vầng ô hằng soi sáng, Suối muôn đời; / Phước thế gian từ nay tôi không màn, / Lòng đây cầu Giê-xu xuống phước trời. / Giê-xu, Ngài thật bánh muôn muôn đời, / Lòng tôi từng vui nếm, ước ăn hoài; / Uống nước nơi Ngài, suối thiêng từ trời, / Lòng tôi từ nay luôn thỏa trong Ngài. / Ôi Thánh thủ, thật vinh hiển biết bao. /Niềm hạnh phúc đến nay vẫn thuộc về Ngài! / Vâng, cho dù bị khinh thường và đau đớn, / Tôi vui mừng xưng Ngài thuộc về tôi.”
Sự bị khinh miệt, đẫm máu của Chúa Cứu Thế không phải là một sự mô tả chúng ta nghe thường xuyên. Nhưng nó là một sự mô tả mà tiên tri Ê-sai đã viết cho chúng ta trong đoạn 52. Thật sự thì có lẽ tiên tri Ê-sau,cũng như vua Đa-vít trong Thi Thiên 22, diễn tả còn nhiều hơn bất cứ trước giả Phúc Âm nào nữa. Cho nên trước hết chúng ta hãy mở trở lại xem những lời của vị tiên tri. Es 52:14-17. Tôi nghĩ điều này sẽ là một sự nhắc nhở cho chúng ta,bởi vì chúng ta thường có một hình ảnh quen thuộc, nhưng không đúng về Chúa Cứu Thế, cho Ngài là một người đẹp trai, yêu đời đã đánh mạnh vào tận nền tảng của thế giới với dáng vẻ thu hút và nét đẹp bên ngoài của Ngài. Tôi không nhìn thấy bức tranh đó khi tôi đọc những lời của tiên tri Ê-sai.
Như nhiều kẻ thấy ngươi mà lấy làm lạ (mặt mày người xài xể lắm hơn kẻ nào khác, hình dung xài xể hơn con trai loài người),
Thành ngữ Hê-bơ-rơ được dùng trong câu này nói lên ý nghĩa “Ngài trông không còn giống con người nữa.” Nó nói lên ý tưởng hình dáng dễ sợ, kinh khủng của Chúa Giê-xu,rất bê bết đến độ trông Ngài không còn giống như hình thể một con người nữa, rằng Ngài đã bị sưng bầm, tím thẩm khắp trên thân thể. Một người đã diễn dịch điều này rằng “một sự bầm dập vĩ đại chính là hình thể của Ngài.”
Tiếp theo ông nói trong Es 53:2-3,
Người đã lớn lên trước mặt Ngài như một cái chồi (là Chúa Giê-xu, Ngài lớn lên trước mặt Đức Chúa Trời như một cái chồi), như cái rễ ra từ đất khô (nghe không có gì hấp dẫn cả). Người chẳng có hình dung, chẳng có sự đẹp đẽ; khi chúng ta thấy người, không có sự tốt đẹp cho chúng ta ưa thích được.
Người đã bị người ta khinh dể và chán bỏ, từng trải sự buồn bực,biết sự đau ốm, bị khinh như kẻ mà người ta che mặt chẳng thèm xem; chúng ta cũng chẳng coi người ra gì.
Chúng ta hoàn toàn không coi Ngài có giá trị gì cả.Trước mặt chúng ta, Ngài chẳng qua chỉ là một khối vật lý vô giá trị mà thôi.Nếu chú ý trong phần cuối của câu 2, quý vị sẽ thấy rằng hình dáng bên ngoài của Ngài hoàn toàn chẳng có gì thu hút chúng ta đến cùng Ngài cả.
Đó chính là hình ảnh của Chúa Cứu Thế của thập tự giá và nó không phải là một bức tranh đẹp, thật sự thì hoàn toàn không bao giờ có ý trở nên một bức tranh đẹp cả.Và sẽ làm giả giá trị quang cảnh ấy khi tạo cho Ngài hình ảnh đẹp đẽ, với quần áo đẹp và vầng hào quang chung quanh đầu, điều này sẽ làm tiêu hủy hết mọi ý nghĩa thật. Chúng ta nhìn thấy Ngài bị treo lơ lửng giữa trời và đất, ủ rũ, thê lương và hoàn toàn trần trụi trong sự nhục nhã của mình. Ngài bị người ta đánh đấm. Một chiếc mão bằng gai nhọn do họ nhặt từ bụi gai bên ngoài sân chỗ xử án,kết lại với nhau và ấn mạnh trên đầu Ngài, khiến máu tuôn chảy từ đầu xuống mũi, xuống mặt Ngài, râu Ngài, mà Ngài đã gánh chịu bởi những bàn tay độc ác của con người. Sự xưng bầm làm khuất mắt, mũi, miệng, cổ đến độ trông Ngài không còn giống hình thể một con người nữa.
Lu-ca là bác sĩ y khoa. Trong chương 23 của Phúc Âm của ông kể lại cho chúng ta câu chuyện giống như một bản tường thuật y khoa của bác sĩ. Lu-ca không hề bị cảm xúc chi phối, và đúng ra cũng không nên như vậy. Một bác sĩ không nên đễ cảm xúc chi phối. Nhưng như đọc trong sự ký thuật của Lu-ca, chúng ta nhớ, Ngài bị kinh bỉ. Ngài bị chối bỏ. Ngài bị Đức Chúa Trời lìa bỏ. Ngài chĩu thống khổ. Ngài bị thương vì cớ tội lỗi của chúng ta.
Trong câu 44 của đoạn này, bác sĩ Lu-ca ký thuật trong một hình thức không hề bị cảm xúc chi phối, về thời điểm của ngày ấy. “Khi đó, ước giờ thứ sáu.” Tức vào giữa trưa. Lúc 12 giờ trưa. Và tiếp theo ông cho chúng ta biết vài điều xảy ra với quang cảnh chung quanh lúc ấy.
“. . . khắp xứ đều tối tăm cho đến giờ thứ chín.” (Lu 23:44)
Từ là 3 giờ chiều. Từ giữa trưa cho đến 3 giờ chiều, có một hiện tượng lạ xảy ra –sự tối tăm phủ trùm trên mặt đất như một cái màn. Như là quả địa cầu bị oằn oại dưới gánh nặng mà Chúa Giê-xu đang mang – những tội lỗi của cả thế gian. Và ông tiếp tục mô tả cho chúng ta biết rằng mặt trời trở nên tối tăm.
Tiếp theo, tôi xin nhắc quý vị lần nữa, trong một cách không bị cảm xúc chi phối,bác sĩ Lu-ca viết thêm rằng “màn trong đền thờ xé chính giữa ra làm hai.” Ông chỉ viết trong những lời ngắn gọn nhất, nhưng tấn màn dày quen thuộc này đối với các thầy tế lễ bị xé ra làm hai, giống như quý vị cần trang bìa của tờ báo xé toạc ra làm hai vậy. Tấm màn dầy cách kỳ lạ ấy từng được treo giữa nơi thánh và nơi chí thánh bị xé xa. Nó mở rộng ra để con người có thể bước vào. Chúng ta sẽ nói đến điều đó trong sứ điệp khác, nhưng đó thật sự là một sứ điệp cho con người ngày nay. Không còn có sự ngăn trở giữa con người và Đức Chúa Trời nữa. Không có hàng rào ngăn cản nữa. Không còn có bức màn nữa. Nó đã bị xé ra làm hai. Và bác sĩ Lu-ca đã hạ nó xuống giống như nó là một phần không quan trọng trong toàn thể những gì mà ông đã nhìn thấy vậy.
Và rồi ông tiếp tục, ông cho chúng ta câu nói của hi sinh.
“Đức Chúa Jêsus bèn kêu lớn rằng: Hỡi Cha, tôi giao linh hồn lại trong tay Cha! Ngài vừa nói xong thì tắt hơi. “
Và bác sĩ Lu-ca ghi xuống trong bài tường thuật, Ngài “tắt hơi.” (AIFL-882, TS).
Hôm nay tôi muốn chúng ta suy nghĩ về câu nói của Chúa Giê-xu ban ra. Chúng ta đã học qua bảy lời phán của cuối của Chúa Cứu Thế rồi. Đây là lời phán thứ bảy trong loạt ấy. Tôi muốn chúng ta hãy xem lại những lời ấy và để tâm trí chúng ta suy gẫm về ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Chắc chắn là chúng ta không thể nắm hết tất cả về nó được.
I. HỠI CHA
Trở lại với Lu 23:46, “Đức Chúa Giê-xu bèn kêu lớn tiếng.” Để bắt đầu, chúng ta hãy nghĩ về chữ “Hỡi Cha” này. Ngài đang bị treo trên thập tự giá. Ngài đã đến với những giây cuối cùng của cuộc đời. Ngài đã năng thân mình lên và rồi thả nó xuống trên trụ gỗ – nó chính là chỗ chứa đựng thân thể Ngài. Ngài dựa trên nó chốc lát, và rồi lại phải nâng thân mình lên để có thể hít thở. Rồi Ngài lại buông xuống và lại nâng lên. Ngài đã làm điều đó trong nhiều tiếng đồng hồ rồi. Ngài đã đến giây phút cuối cùng, và nói: “Hỡi Cha!”
Tôi nghĩ có vài điều ở đây mà chúng ta không nên bỏ qua. Một lần nữa, Chúa Giê-xu đã quay trở lại trong mối thông công gần gũi với Đức Chúa Trời.Nếu quý vị để thì giờ truy lại những biến cố đã xảy ra trong những giờ cuối cùng của Chúa Cứu Thế Giê-xu trên thập tự giá, quý vị sẽ khám phá ra một điều lạ lùng. Cho phép tôi chia sẻ với quý vị một lịch sử của những gì đã xảy ra.
Trong Phúc Âm Giăng 17 cho chúng ta biết rằng đâu khoảng giữa từ phòng cao ở Giê-ru-sa-lem và Gô-gô-tha, hay chỗ Ngài bị bắt trong vườn Ghết-sê-ma-nê. Chỗ nào đó trong khoảng giữa từ phòng cao đến khu vườn Ngài bị bắt, Chúa Giê-xu đã dừng lại trên đường đi và cầu nguyện. Phúc Âm Giăng 17 ký thuật lại lời cầu nguyện ấy cho chúng ta, và trong lời cầu nguyện ấy, Chúa Giê-xu nói: “Cha ơi,giờ của Cha đã đến rồi.” Những lời này mới trông dường như không quan trọng,nhưng sự thật thì không phải vậy. Mà như Ngài phán rằng: “Cha ơi, do bởi con đến trên quả đất này, do bởi con đã đến thành Bết-lê-hem, do bởi tôi được nuôi dưỡng và làm việc trong xưởng mộc của cha tôi, do bởi tôi đạt đến bậc thành nhân và bắt đầu chức vụ sau khi Giăng Báp-tít trình bày cách hiệu quả về sự đến của ta, bởi vì Ta đã làm tròn trách nhiệm, và do bởi Ta đã chuẩn bị các môn đồ cách tốt nhất có thể được, bây giờ giờ đã đến.” Nhưng Ngài đã gọi Đức Chúa Trời là “Hỡi Cha.”
Bây giờ nếu quý vị đi với Ngài xa hơn chút nữa đến vườn Ghết-sê-ma-nê, quý vị sẽ thấy một lần nữa Ngài cầu nguyện. Ngài không mất sự liên hệ với Đức Chúa Trời phải không quý vị? Ngài đã cầu nguyện trong vườn rằng:“Nếu được, xin cất chén này khỏi con; song không theo ý con mà ý Cha được nên.”Quý vị còn nhớ lời cầu nguyện ấy không? Nó là một lời cầu nguyện thành thật. Nó nói cho chúng ta vài điều về nhân tính của Chúa Cứu Thế. Tận trong đáy lòng của Ngài, điều đó là thật, mang tính nhân loại và đầy xúc cảm như chúng ta, Ngài đã cầu xin: “Cha ơi, nếu có cách khả thi nào khác mà Chúng ta có thể thay đổi kế hoạch, thì xin cho chén này qua khỏi con.” Nhưng dĩ nhiên là không hề có cách nào khác. Nhưng Ngài đã cầu nguyện: “Cha ơi, không phải theo ý con, mà theo ý Cha được nên.”
Tiếp theo Ngài đã trải qua những cuộc xét xử. Có 6 phiên tòa tất cả, như quý vị còn nhớ. Và cuối cùng, khi phiên tòa kết thúc, Ngài bị tuyên bố có tội – không phải tìm thấy có tội, nhưng là bị tuyên bố có tội (và tất cả những phiên tòa đều bất hợp pháp) – Ngài bị dời đi trên Con Đường Thập Tự để đến đồi Sọ. Tại đó, hai bàn tay Ngài bị xé bởi các mũi đinh, chân Ngài bị đưa lên khỏi mặt đất, xác thịt bị xé ra, và Ngài nói,
“.. . Lạy Cha xin tha cho họ; bởi họ không biết mình làm điều gì. . .”
Một lần nữa Ngài đã cầu nguyện. Ngài không hề mất sự liên lạc với Đức Chúa Trời.
Kế đến chúng ta đến với quang cảnh. Trong khi Ngài bị treo trên thập tự giá và không còn bất cứ thì giờ nào còn lại cho bất cứ điều gì Ngài phải hoàn tất, Đức Chúa Trời đã xây lưng khỏi Con Ngài trong thời điểm Con Ngài mang lấy tất cả tội lỗi của thế gian. Tại thời điểm đó, Chúa Giê-xu không hề gọi Đức Chúa Trời là Cha. Ngài gọi là gì? Ngài nói,
. . . “Đức Chúa Trời tôi ơi, Đức Chúa Trời tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi?”
Quý vị thấy đấy, Đức Chúa Cha đã lìa bỏ Đức Chúa Con, bởi vì tại trong thời điểm ấy của thời gian, toàn thể tội lỗi của nhân loại đều chất trên Ngài. Giống như lấy một cái chậu to lớn, đổ đầy với tội lỗi vô giới hạn, và trút chậu ấy trên Ngài,cho nên tại thời điểm ấy của thời gian, Ngài đã mang tất cả bộ tội lỗi của thế gian – quá khứa, hiện tại và tương lai. Tất cả tội lỗi. Và tự nhiên, do bởi Đức Chúa Trời không thể liên hiệp với tội lỗi, nên Ngài đã quay lưng lánh khỏi.
Tại thời điểm này, những giây cuối cùng của sự sống, Ngài đã nói gì với Đức Chúa Cha? Ngài nói: “Hỡi Cha. . . Hỡi Cha.” Ngài không nói chuyện với Đức Chúa Trời một cách nghi thức xa lạ. Bởi vì một lần nữa,Ngài đã quay trở lại trong mối thông công thân mật với Đức Chúa Trời.
Quý vị có biết qua tất cả những gì tôi vừa chia sẻ với quý vị, những gì thật sự nói với tôi về điều này không? Nó nói lên sự kiện là bất kể hoàn cảnh như thế nào,bất kể ở đâu, Chúa Giê-xu không bao giờ đánh mất sự liên hệ với Đức Chúa Cha.Nó có nói với quý vị như thế không? Quý vị ơi, có sự gián đoạn một chốc trong chương trình của chúng ta, một sự thay đổi nhỏ nhất, một sự cáu tiết nhỏ nhất,thì chúng ta thường để nhiều phút, có khi nhiều giờ, hãy vượt qua nó trước khi chúng ta quay trở lại thưa với Chúa rằng: “Lạy Cha, cám ơn tình yêu thương của Cha. Cám ơn sự tha thứ của Cha. Cám ơn sự hiện diện của Cha.” Và ngay cả “Cám ơn về sự gián đoạn” nữa. Quý vị thấy đấy, có những khoảng trống trong mối liên hệ giữa chúng ta với Đức Chúa Trời không đáng nên có. Là con người, là đối tượng cho tội lỗi, chúng ta thường như chiên đi lạc, ai theo đường nấy, chúng ta không giống Chúa Cứu Thế. Trong suốt hành trình trải qua tất cả những kinh nghiệm ấy ấy, hoàn toàn không hề có một sự gián đoạn liên tục nào trong mối liên hệ thông công giữa Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con cả. Ngài không bao giờ đánh mất điều đó.
Quý vị có chờ đợi một thời điểm khi mà đời sống của quý vị sẽ rất kiên định, kiên định một cách lạ lùng bất kể hoàn cảnh như thế nào, cũng đều nói lên được rằng: “Lạy cha yêu thương, cám ơn Cha về việc ở với con hôm nay; con cần Cha hơn bất cứ thời điểm nào” không? Đó là một trong những điều thực tiển mà tôi nhìn thấy trong lời cầu nguyện này.
II. TRONG TAY CHA
Chúng ta hãy tiếp tục. Chúa Giê-xu nói,
“.. . Hỡi Cha, tôi giao linh hồn lại trong tay Cha. . . .”(Lu 23:46)
“Trong tay CHA.” Chắc quý vị còn nhớ sứ đồ Phi-e-rơ, người tận mắt chứng kiến Chúa Giê-xu bị bắt và một phần phiên xử trước khi chối Chúa. Nhưng sau đó, bởi ân điển của Đức Chúa Trời, Phi-e-rơ được Chúa tái bổ nhiệm làm phát ngôn viên của Đức Chúa Trời sau khi Chúa Giê-xu thăng thiên. Tôi không biết quý vị còn nhớ lời của sứ đồ Phi-e-rơ trong bài giảng đầu tiên tại Lễ Ngũ Tuần không? Sau khi Chúa Thánh Linh giáng xuống trên các môn đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần, sứ đồ Phi-e-rơ lúc đó được đầy dẫy Thánh Linh, bắt đầu công bố về sự sống lại của Chúa Cứu Thế Giê-xu và hy vọng về sự cứu rỗi trong danh Ngài. Cong 2:22-23,
“Hỡi người Y-sơ-ra-ên, hãy nghe lời nầy: Đức Chúa Jêsus ở Na-xa-rét, tức là Người mà Đức Chúa Trời đã dùng làm việc quyền phép, sự lạ và dấu lạ ở giữa các ngươi, để làm chứng cho Người trong vòng các ngươi, như chính các ngươi đều biết.
Người đó bị nộp, theo ý định trước và sự biết trước của Đức Chúa Trời, các ngươi đã mượn tay độc ác mà đóng đinh Người trên thập tự giá và giết đi.
Nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Người sống lại. . .”
Cho phép tôi dừng lại ở đây. Sứ đồ Phi-e-rơ nói trong câu 23 rằng: “Các ngươi đã mượn tay độc ác mà đóng đinh Người trên thập tự giá.” Bây giờ chúng ta quay trở lại Lu-ca 23. Ở đây ghi: “Hỡi Cha, tôi giao linh hồn lại trong tay Cha.” Điều gì đã xảy ra vậy?Thưa, trong một cảm xúc rất thật, Ngài đã thay đổi “tay.” Chúa Giê-xu đã thay đổi từ tay của người độc ác sang tay của Đức Chúa Cha. Ngài trở lại trong bàn tay của Đức Chúa Cha.
Tôi đề nghị quý vị để thì giờ nghiên cứu, nếu quý vị chưa làm điều này, về những gì bàn tay con người đã làm cho Đấng Cứu Thế chịu khổ. Quý vị tìm bản dịch Kinh Thánh Diễn Ý, hay bản dịch nào vẽ lên hình ảnh này rõ ràng nhất có thể được. Nó sẽ khiến quý vị ngạc nhiên khi đọc trong Ê-sai 52 rằng Ngài “hình dung xài xể hơn con trai loài người.” Nó sẽ cho quý vị một sự cảm kích sâu xa về những gì Chúa Giê-xu đã gánh chịu tại đồi Gô-gô-tha. Quý vị sẽ cảm kích hơn cả những gì được ghi trong thư Phi-líp khi nói về việc “thông công trong sự chịu khổ của Ngài.” Nhưng bây giờ Chúa Giê-xu nói rằng: “Giai đoạn kinh khiếp ấy đã qua rồi;con trở lại trong bàn tay Cha.”
Quý vị biết không, thật không có gì có thể so sánh với việc ở trong vòng tay của người thương yêu quý vị. Quý vị thính giả nào từng xem trên tivi hay đọc trong trên báo chí về cảnh các tù nhân chiến tranh được trao đổi, thay trả tự do trở về với gia đình. Những quang cảnh của sự đón tiếp thật hết sức cảm động. Tôi tin rằng một người sắt đá nhất cũng phải cảm động, có khi rơi nước mắt, trước quang cảnh đoàn tụ ấy. Các tù nhân từ trên phi cơ bước xuống, sau màn chào đón của giới thẩm quyền, cờ xí, ban nhạc, là cảnh cảm động khi họ chạy đến với thân nhân – hay thân chạy đến với họ – hai vòng tay dang rộng ra và họ ôm chầm lấy nhau, tức tửi trong nước mắt vui mừng. Quang cảnh đoàn tụ với người thân yêu và ở trong vòng tay của nhau ấy quả rất cảm động.
Và đó chính là những gì tôi nhìn thấy ở đây trong Chúa Giê-xu. “Hỡi Cha, con trở lại trong tay Cha, trong vòng tay mà con đã từng biết rất rõ trong cõi đời đời của quá khứ, trong vòng tay ấy, con giao linh hồn con lại.” Từ “giao” mà bác sĩ Lu-ca sử dụng ở đây là một từ quen thuộc trong thời Tân ước chỉ về việc “đặt vào” hay “biệt riêng ra,” giống như biệt riêng để dành riêng ra điều gì đó vậy.Chúa Giê-xu nói: “Hỡi Cha, con giao linh hồn con, con đặt linh hồn con vào trong vòng tay chăm sóc của Cha.” Điều lý thú đối với tôi là Ngài đặt linh hồn,chứ không phải thân thể vào tay Đức Chúa Trời. Quý vị thấy đấy, thân thể của Ngài có một chỗ đến khác. Nhưng tại thời điểm này Ngài đặt linh hồn mình vào trong bàn tay của Đức Chúa Trời.
Bây giờ thì câu hỏi có thể được đặt ra là: “Làm thế nào Chúa Giê-xu có thể giao linh hồn trong tay Đức Chúa Trời, trong khi Ngài đang mang tất cả tội lỗi của thế gian?” Thưa, dĩ nhiên là câu trả lời nằm trong sự kiện Ngài đã hoàn tất công tác mang lấy tội lỗi. Khi Đức Chúa Cha quay mặt khỏi Ngài và Ngài kêu lớn tiếng: ““Đức Chúa Trời tôi ơi, Đức Chúa Trời tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi?” tại thời điểm ấy, Chúa Giê-xu đang mang lấy tội lỗi của thế gian. Bây giờ thì tội lỗi đã được mang rồi, nên Ngài có thể nói được rằng: “Cha ơi, khi thân thể con được cất khỏi trái đất này, thì trong tay Ngài, con trao phó linh hồn con.”
Tôi muốn quý vị nhìn thấy điều đã đến với tôi trong tuần này đang khi tôi suy nghĩ về sứ điệp hôm nay. Thư 1 Giăng 2 giới thiệu về một lẽ đạo mà tôi tưởng rằng ít khi được nói đến từ toà giảng. Hoặc nhiều lắm là một hay hai lần trong năm mà thôi. Đó là giáo lý về sự “làm nguôi cơn thạnh nộ” – hay của lễ chuộc tội. Tôi xin chỉ cho quý vị thấy lẽ đạo nghe có vẽ lộn xộn ấy thật sự quan trọng và ý nghĩa như thế nào.
IGi 2:1-2,
“Hỡi con cái bé mọn ta, ta viết cho các con những điều nầy, hầu cho các con khỏi phạm tội. Nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Đấng cầu thay ở nơi Đức Chúa Cha, là Đức Chúa Jêsus Christ, tức là Đấng công bình.
Ấy chính Ngài làm của lễ chuộc tội lỗi chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta thôi đâu, mà cũng vì tội lỗi cả thế gian nữa.”
Xin chú ý cụm từ “của lễ chuộc tội” trong một số bản dịch ám chỉ nghĩa “làm thỏa mãn.” Đó chính là ý nghĩa của cụm từ ấy. Cụm từ “của lễ chuộc tội” có nghĩa là “cất sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời đi bằng một của lễ và đem lại sự thỏa mãn trong lòng của Đức Chúa Trời.” Quý vị thấy đấy, kho con người phạm tội trong vườn Ê-đen, cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời xảy ra. Đó là lý do tại sao chúng ta đọc thấy trong Phúc Âm Gi 3:36 rằng một người không tin nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa riêng cho mình thì đang sống dưới sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời, bởi vì tội lỗi đưa đến sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời.
Lẽ thật kỳ diệu là khi Chúa Cứu Thế Giê-xu hi sinh và chịu chết cho tội lỗi của thế gian, khi Ngài trả giá cho tội lỗi bằng của lễ chính thân thể mình, thì điều đó đã làm hài lòng Đức Chúa Trời một lần đủ cả. Chúa Cứu Thế trở nên của lễ chuộc tội cho chúng ta bởi vì sự hi sinh của Ngài là của lễ xứng hiệp và được chấp nhận dưới mắt Đức Chúa Trời. Và bây giờ, khi Đức Chúa Cha nhìn Đức Chúa Con, Ngài nhìn với sự hài lòng – trong lòng Đức Chúa Trời có sự thỏa mãn. Đức Chúa Trời được làm dịu cơn thạnh nộ, và Chúa Cứu Thế khiến điều đó khả thi khi Ngài mang lấy tất cả tội lỗi của thế gian. Chúng đã được Ngài mang lấy.
Cho nên khi chúng ta trở lại với Lu-ca 23, chúng ta chú ý thấy Ngài nói: “Hỡi Cha, tôi giao linh hồn lại trong tay Cha.” Ngài nói điều đó không hề có một chút thắc mắc. Ngài biết rõ điều này được chấp nhận bởi vì của lễ chuộc tội đã được trả.
III. NGÀI TRÍCH DẪN KINH THÁNH
Cuối cùng, ý tưởng đến với tôi khi tôi nhìn vào câu nói đơn giản này của Chúa Cứu Thế Giê-xu là khi chết Ngài đã trích dẫn Kinh Thánh. Ngài đã trích dẫn từ Thi Thiên 31, phân đoạn mà chúng ta đã đọc trong phần đầu, cho nên bây giờ chúng ta không cần phải mở ra nữa. Nhưng trên môi miệng của Chúa Cứu Thế là những lời chính xác được trích đoạn từ Kinh Thánh.
Quý vị thuộc lòng tốt như thế nào về những lẽ thật quan trọng của Đức Chúa Trời được chép trong Kinh Thánh? Tôi không có ý nói về việc học thuộc lòng để “trả câu gốc.”Thành thật mà nói, tại thời điểm này, tôi cảm thấy điều đó quả không quan trọng.Không phải chúng ta học Lời Chúa để thi. Chúng ta không học Lời Chúa để làm người khác thán phục. Chúng ta không học Lời Chúa để chứng tỏ cho người khác thấy mình giỏi Kinh Thánh như thế nào. Chúng ta giấu Lời Chúa trong lòng để nó có thể xuất hiện ngay trên môi miệng chúng ta khi đối diện với những áp lực đến trên đời sống chúng ta, khi chúng ta đối diện với những hoàn cảnh mà chúng ta không thể có câu trả lời bằng ý tưởng riêng của mình. Có điều gì đó về Lẽ thật sắc bén của Đức Chúa Trời dường như đem lại sự thỏa mãn.
Nếu quý vị nào thường xuyên làm công tác chứng đạo, hoặc qua đời sống, hoặc qua lời nói, nếu quý vị thường xuyên làm chứng về Chúa Cứu Thế, thì quý vị không cần phải được thuyết phục về tầm quan trọng của việc hiểu biết Kinh Thánh. Môi miệng của quý vị cần sẵn sàng để trích dẫn những câu nói về tình trạng hư mất của con người,về sự hi sinh của Chúa Cứu Thế Giê-xu, về việc Đức Chúa Trời hài lòng với sự hi sinh ấy, và những lời hứa tuyệt vời của Đức Chúa Trời cho những ai tin nhập Con Ngài. Những lời đó cần phải ở trên môi miệng của quý vị. Chúng cần được giữ ở gần hầu để bất cứ điều gì xảy ra, chúng có mặt ở ngay trong lòng của quý vị.
Truyền thống cho chúng ta biết rằng những bà mẹ Do-thái trong thế kỷ đầu tiên không dạy con cái mình cầu nguyện: “Bây giờ xin Chúa ban giấ cngủ cho con,” nhưng họ dạy con mình cầu nguyện: “Hỡi Cha, con giao linh hồn con trong tay Cha.” Thật lý thú khi thấy rằng đây chính là lời cầu nguyện mà Chúa Giê-xu đã dâng lên. Và mẹ Ngài, rất có khả năng vẫn còn hiện diện tại đó lúc ấy. Tôi tự hỏi không biết điều đó nói lên điều gì với tấm lònh của một người mẹ. Rất ít, rất hiếm những người mẹ phải chứng kiến thảm kịch nhìn thấy cái chết của con cái mình. Cảnh “tre khóc măng” quả thật đau thương. Quý vị thính giả nào từng trải qua hoành cảnh này, hay từng nhìn thấy điều này, thì hiểu rõ sự đau đớn của người mẹ trong hoàn cảnh ấy là thể nào.
Và tiếp theo Kinh Thánh ghi rằng: “Ngài vừa nói xong thì tắt hơi!” Ngài đã ra đi.
Tôi đọc được câu chuyện lạ lùng xảy ra trong thời Thế Chiến thứ hai. Một người lính Mỹ trên chiến trường ở Pháp, tình cờ dẫm lên một khuôn hình cũ, từng chứa hình Chúa Cứu Thế Giê-xu, tuy nhiên anh ta không hề biết điều đó. Trải qua những cuộc chiến và sự tàn phá của chiến tranh, bức tranh ấy đã bị phá hủy. Nhưng khuôn hình cũ kỹ ấy vẫn còn nguyên vẹn, dù không có bức hình nào trên ấy nữa. Bên dưới khuôn hình ấy có ghi hàng chữ bằng tiếng La-tinh “Ecco Homo.” Anh lính này hoàn toàn không biết gì về chữ La-tinh cả, nhưng anh nghĩ đây có thể là vật kỷ niệm rất tốt về chiến trường tại Pháp, cho nên anh nhặt lấy và gửi về cho gia đình bên Mỹ. Mẹ anh nhận được khuôn hình và nghĩ: “Ồ, rất đẹp!” Nên bà cho gắn tấm gương soi vào và treo trên tường trong nhà. Trong thời gian đó, người lính trên chiến trường nhận biết Chúa Cứu Thế Giê-xu và tiếp nhận Ngài qua lời chứng của một vị Tuyên úy. Anh trải qua nhiều trận đánh tưởng như đã mất mạng. Trong tiến trình tâng trưởng thuộc linh, anh đọc được nhiều lẽ thật quan trọng của Cơ-đốc giáo, và được dạy cho nhiều điều mà anh chưa hề biết đến trước đây. Khi anh trở về nhà, bước vào bên trong ngôi nhà nhỏ nhắn và đơn sơ – dĩ nhiên với sự chào đón nồng nhiệt của cha mẹ và bạn bè – anh nhìn lên tường và thấy khuôn hình ấy.Anh nhìn vào khuôn hình và thấy mình ở trong ấy. Lúc đó thì anh đã hiểu những chữ La-tinh ấy có nghĩa là “Hãy nhìn xem Con Người.” Nhìn vào khuôn hình với chính mình trong ấy, anh hình dung ra chính mình ở trong Chúa Cứu Thế Giê-xu,là điều mà anh chưa hề bao giờ biết đến trước đây.
Lời Đức Chúa Trời nói rằng: “Hãy nhìn xem Con Người.”Hãy nhìn xem Ngài tại Bết-lê-hem, khi Ngài đến thế gian. Hãy nhìn xem Ngài tại Ga-li-lê, khi Ngài thi hành chức vụ. Hãy nhìn xem Ngài tại vườn Ghết-sê-ma-nê,khi Ngài thống khổ. Hãy nhìn xem Ngài tại Gô-gô-tha. Và rồi phản ảnh chính mình quý vị như quý vị đang nhìn xem Ngài (AIFL-883,TS).
Không có tấm gương soi nào như tấm gương Lời Đức Chúa Trời. Nó cho chúng ta thấy những về chính mình. Nó cho thấy những gì là thật như thực tế của nó.
Thưa quý vị thính giả thân mến, hôm nay tôi muốn quý vị biết rằng trên hết mọi sự, Đức Chúa Trời rất yêu thương quý vị. Tận trong đáy lòng tôi tin rằng Đức Chúa Trời cho quý vị lắng nghe chương trình phát thanh này, mỗi một người trong quý vị, với một mục đích – chính yếu là để chúng ta “Hãy nhìn xem Con Người.” Tôi trông chờ mỗi một quý vị thính giả đang lắng nghe đài hôm nay đều sẽ đi đến chỗ nhận biết Chúa Cứu Thế Giê-xu cách cá nhân. Quý vị là một tội nhận, nhưng đó không phải là vấn nạn không giải quyết được.
“Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nổi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ quý vị tin Con Ngài, quý vị sẽ không bị hư mất, . . .”
Đó là sự ban cho của Đức Chúa Trời cho quý vị. Quý vị sẽ có sự sống đời đời.
“Chỉ có một Đức Chúa Trời, và một Đấng trung bảo ở giữa Đức Chúa Trời và người, Người đó chính là Chúa Cứu Thế Giê-xu.”
Sự chết từng được gọi là “kẻ cắt ngang vĩ đại,” “kẻ thẳng tay vung lưỡi hái,” “thung lũng phía sau.” Hoặc như nhân vật Ham let trong kịch củaShakespear rên rĩ “quốc gia mà người đi đến không ai quay trở lại.”Tất cả những hình ảnh ấy hướng về sự không chắc chắn, lo sợ tự nhiên, sự chết.Nhưng bởi vì sự chiến thắng của Chúa Cứu Thế Giê-xu, chúng ta không cần thiết phải sợ hãi sự chết nếu như chúng ta nhận Ngài làm Chúa Cứu Thế của đời sống mình. Thay vào đó, chúng ta có thể nói như nhà văn Erwin Lutzer: “Sự chết, kẻ thù của chúng ta, có thể trở thành bạn của chúng ta khi Đức Chúa Trời gửi đến chúng ta lời gọi cuối cùng. Chúng ta có thể vui mừng vì Ngài đã ban cho chúng ta một ánh sáng sắc bén để chiếu rọi bóng tối. Sự chết không phải là sự vô vọng đâm sâu vào khoảng trống không quen biết.”
Điều đó quả đúng sự thật là thể nào. Đối với Cơ-đốc nhân, sự chết không phải là bước vào không không vô tận. Nó là cánh cửa dẫn mỗi một Cơ-đốc nhân vào trong lời hứa về sự hiện diện của Cha thiên thượng, Đấng đã chuẩn bị sẵn một chỗ cho chúng ta trên trời!
Có thể một chứng bệnh nan y đang đặt quý vị hay người thân thương của quý vị tại cửa của sự chết. Xin đừng để sự nghi ngờ, sợ hãi hay thắc mắc chiếm lấy tâm trí của quý vị. Quý vị có thể biết được sự bình an của Chúa Cứu Thế Giê-xu ngay hôm nay! Quý vị có thể học tin cậy những lời hứa trong Lời Ngài và suy gẫm về ân điển, tình yêu và sự cung cấp của Ngài cho quý vị. Ngài sẽ an ủi quý vị với sự bình an của Ngài – một sự bình an vượt lên trên tất cả mọi sự hiểu biết.
Chúa Giê-xu biết rõ rằng Đức Chúa Trời đang nóng lòng chờ đợi tiếp nhận Ngài trở lại vào Thiên đàng, nên đã cầu nguyện dâng hiến linh hồn Ngài trong bàn tay cham1 sóc của Đức Chúa Trời. Cùng sự cảm đảm được tiếp nhận vào thiên đàng ấy có thể trở nên của cá nhân quý vị hôm nay.
Bất cứ quý vị đang ở đâu, nếu có thể được, tôi mời quý vị hãy nhắm mắt cúi đầu trong sự cầu nguyện. Nếu quý vị thính giả nào chưa từng bao giờ nhận biết Chúa Cứu Thế Giê-xu là Đức Chúa Trời và Đấng Cứu chuộc của cá nhân mình, thì đây là thời điểm tuyệt vời để quý vị làm điều đó. Ngài là con đường dẫn quý vị đến cùng Đức Chúa Trời. Trong một lời cầu nguyện đơn giản, quý vị có thể nói với Ngài rằng: “Lạy Cha yêu thương, con biết rằng con là một tội nhân. Con biết rằng tội lỗi của con đã ngăn cách con khỏi Cha. Và tự con không thể làm bất cứ điều gì để bắt nhịp cầu xuyên qua khoảnh cách ấy. Cho nên hôm nay, con đến cùng thập tự giá, cây cầu duy nhất mà Cha công nhận và tôn trọng. Con đến với chỉ một mình Ngài thôi, qua Chúa Cứu Thế Giê-xu, bởi đức tin. Không phải bởi việc làm riêng của con. Con nhận sự chết của Ngài như là giá trả trọn vẹ cho tội lỗi của con. Con đặt chính mình trước mặt Cha như là một đứa con của Cha. Cám ơn Cha về sự tha thứ tất cả mọi tội lỗi của con.”
Nếu quý vị nào vừa đọc lời cầu nguyện ấy, hay tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu, tôi khuyến khích quý vị hãy viết thư cho chúng tôi, liên lạc với chúng tôi. Cho chúng tôi về quyết định của quý vị. Chúng tôi muốn có được cơ hội quen biết với quý vị và gửi thêm bài học giúp quý vị hiểu biết thêm về đời sống mới trong Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Kính lạy Cha yêu thương, con cầu xin Cha hãy lấy những lời trong sứ điệp này, và Cha sẽ đóng ấn lòng chúng con bằng lẽ thật của những gì chúng con vừa nghe, và những quyết định mà quý vị thính giả vừa trình lên Cha hôm nay. Chúng con thành tâm cầu nguyện trong danh quý báu của Chúa Cứu Thế Giê-xu. A-men!"
Leave a Comment